Căn bệnh thường mắc ở độ t.uổi trung niên và phải điều trị suốt đời nay gặp rất nhiều ở người trẻ, thậm chí 9-10 t.uổi đã mắc.
Bệnh viện Nội tiết Trung ương vừa công bố kết quả khảo sát trong 2 năm với hơn 2.800 t.rẻ e.m lứa t.uổi 11-14 trên toàn quốc, cho thấy nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường ở nhóm đối tượng này rất lớn.
Cụ thể, có 178 trẻ (6.2%) mắc rối loạn glucose m.áu, trong đó lứa t.uổi trẻ nhất (11 t.uổi) có tỉ lệ mắc cao nhất (8,1%); trong khi ở nhóm t.uổi lớn hơn có rối loạn glucose m.áu thấp hơn.
Béo phì làm tăng nguy cơ mắc tiểu đường type 2 ở t.rẻ e.m
Đáng báo động, tỉ lệ thừa cân béo phì ở trẻ lên tới 27,8%, trong đó thừa cân là 17,9% và béo phì là 9,9%. Trong khi đó quá nửa t.rẻ e.m đều chơi game, 34,7% t.rẻ e.m chơi game trên 1 giờ/ngày; 100% t.rẻ e.m đều dùng mạng xã hội, 88% trẻ vào mạng dưới 1 giờ/ngày.
Khi khảo sát, các bé đều cho biết có chơi một môn thể thao, song thời gian trung bình vận động chưa đạt 60 phút/ngày như khuyến cáo.
PGS.TS Trần Ngọc Lương, Giám đốc Bệnh viện Nội tiết Trung ương cho biết, trong vài thập kỷ gần đây, số lượng t.rẻ e.m béo phì tăng lên, dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng tỉ lệ đái tháo đường type 2 ở người trẻ t.uổi.
Béo phì, đặc biệt là béo bụng kết hợp mạnh với kháng insulin ở t.rẻ e.m gây nên rối loạn dung nạp glucose hay t.iền đái tháo đường. Do vậy, những đối tượng t.iền đái tháo đường có nguy cơ cao tiến triển thành đái tháo đường nếu không có sự can thiệp kịp thời.
Do vậy, Bệnh viện Nội tiết khuyến cáo các bậc cha mẹ cùng nhà trường cần có những biện pháp can thiệp kịp thời và toàn diện, xây dựng lối sống lành mạnh, chú trọng phòng tránh béo phì cho trẻ ngay từ bây giờ bằng cách điều chỉnh chế độ ăn như giảm chất béo, đạm, đồ ăn nhanh, tăng cường vận động, giảm xem tivi, điện thoại, chơi game…
Tại Việt Nam, tiểu đường là nguyên nhân gây t.ử v.ong đứng thứ 3 chỉ sau bệnh lý tim mạch và ung thư. Hiện nước ta đang có khoảng 3,5 triệu người chung sống với căn bệnh này, trong đó mỗi năm có 29.000 người t.ử v.ong do các nguyên nhân có liên quan đến đái tháo đường như tim mạch, thần kinh, thận, mạch m.áu, mắt…
Bệnh tiểu đường gồm type 1 và type 2, trong đó type 2 (chiếm 90%) là thể phụ thuộc insulin, phải điều trị suốt đời. Trước đây, tiểu đường type 2 chủ yếu gặp ở người trên 40 t.uổi, song nhiều năm trở lại đây, bệnh có xu hướng trẻ hoá rất nhanh, rất nhiều t.rẻ e.m 9-10 t.uổi hoặc 13-14 t.uổi đã mắc bệnh này.
Theo GS Thái Hồng Quang, Chủ tịch Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam, nguyên nhân khiến t.rẻ e.m mắc đái tháo đường type 2 do liên quan đến béo phì.
Tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương từng điều trị cho b.é g.ái mới 9 t.uổi bị tiểu đường type 2. B.é g.ái được gia đình đưa đến viện trong tình trạng béo phì, có hội chứng gai đen, da bị tổn thương nhưng sau khi làm xét nghiệm mới phát hiện mắc tiểu đường.
Bệnh nhi 13 t.uổi điều trị tiểu đường tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Mới đây, Bệnh viện Nhi Trung ương cũng tiếp nhận b.é g.ái 13 t.uổi bị tiểu đường type 2 do thừa cân. B.é g.ái này thường xuyên uống nước ngọt từ nhỏ, đi tiểu nhiều, mệt mỏi nhưng ban đầu gia đình nghĩ do con học nhiều, chỉ đến khi phát hiện chiếc quần nhỏ của con trong nhà tắm thường xuyên bị kiến bu, cha mẹ mới đưa con đi khám.
Với t.rẻ e.m, nếu mắc tiểu đường type 2 nguy cơ mắc các biến chứng về thận, tim mạch, võng mặc… chỉ trong 5-10 năm. Trong khi đó việc điều trị tiểu đường ở t.rẻ e.m khó khăn hơn nhiều do trẻ không thể kiêng khem như người lớn.
Để dự phòng đái tháo đường type 2 ở người trẻ, GS Quang nhấn mạnh, cha mẹ đừng bắt trẻ ăn nhiều, hãy bỏ suy nghĩ muốn con thật béo và đừng để trẻ ngồi một chỗ quá lâu. Dinh dưỡng và vận động là 2 phương pháp cực kỳ quan trọng để phòng tránh tiểu đường.
Gia tăng t.rẻ e.m lớn mắc viêm não Nhật Bản
Thời gian gần đây xuất hiện trở lại tình trạng trẻ bị viêm não Nhật Bản, trong đó có không ít trẻ lớn t.uổi do cha mẹ không tiêm nhắc lại vaccine phòng bệnh.
Bệnh nhi 13 t.uổi điều trị viêm não Nhật Bản đã kéo dài hơn 2 tháng tại BV Nhi Trung ương.
Tại BV Việt Nam-Thụy Điển Uông Bí trong tháng 7-8/2019 có 4 trường hợp mắc viêm não, viêm màng não nhưng đến tháng 7/2020 đến nay khoa Nhi đã tiếp nhận trên 10 trường hợp, tăng nhiều so với cùng kỳ năm trước, đa phần là bệnh nhi lớn t.uổi.
Trường hợp điển hình như bệnh nhi V. Đ. X., 11 t.uổi địa chỉ tại TP Uông Bí, Quảng Ninh nhập viện cấp cứu Nhi trong tình trạng sốt, đau đầu. Qua thăm khám lâm sàng, xét nghiệm dịch não tủy, trẻ được chẩn đoán là viêm màng não do virus. Sau 9 ngày điều trị, rất may trẻ đã bình phục và trở về với gia đình.
Tại BV Nhi Trung ương, theo TS.BS Đỗ Thiện Hải, trưởng khoa Nội, Trung tâm Bệnh nhiệt đới t.rẻ e.m, BV Nhi Trung ương hiện BV có tới hơn 70% trẻ lớn (từ 5, 6 t.uổi trở lên) mắc viêm não Nhật Bản. Đáng chú ý có trường hợp bệnh nhi X. 13 t.uổi đã điều trị trong thời gian hơn 2 tháng do mắc viêm não Nhật Bản. Trẻ phải mở khí quản, ngoài ra còn có di chứng về thần kinh.
BS Đào Thiện Hải cho biết, với tình trạng ghi nhận ca mắc viêm não Nhật Bản ở trẻ lớn t.uổi, các bậc phụ huynh cần lưu ý đưa con đi tiêm phòng nhắc lại viêm não Nhật Bản. “Khi chúng tôi hỏi các bà mẹ, hầu hết đều cho biết đã tiêm phòng viêm não Nhật Bản cho con đầy đủ (tức là đến 2 t.uổi con đã được tiêm 3 mũi vaccine 5, 6 trong 1).
Nhưng mọi người không biết vaccine có loại sẽ phải tiêm nhắc lại, ví dụ như vaccine phòng viêm não Nhật Bản sẽ bảo vệ được chắc chắn khoảng trên 90% trong vòng 5 năm đầu. Trẻ từ 2 t.uổi tiêm xong 3 mũi thì sau khoảng 5 năm (khi trẻ lên 7 t.uổi) phải tiêm nhắc lại cho con. Sau đó khoảng 12-15 t.uổi lại tiêm nhắc lại thì mới đảm bảo duy trì được.
TS.BS Đỗ Thiện Hải lưu ý, trẻ bị viêm não Nhật Bản khả năng hồi phục thấp, trong trường hợp cứu sống được thì vẫn có những di chứng. Ngay bây giờ có thể nhìn thấy là không tự thở được, phải mở khí quản. Hay các bạn bị tăng trương lực co cứng cơ buộc phải nằm một chỗ, thi thoảng lại co cứng. Hay một số em bé sau bị liệt vận động không đi lại được… Di chứng lâu dài hơn về sau là động kinh, kém phát triển trí tuệ, bại não, hoặc hoặc ảnh hưởng thính lực.
Vì thế khi trẻ có những biểu hiện như trên, đặc biệt với trẻ có biểu hiện co giật, hôn mê cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời để giảm thiểu nguy cơ t.ử v.ong hoặc để lại di chứng về sau.