Đề phòng viêm phổi ở người cao t.uổi

Viêm phổi ở người cao t.uổi (NCT) có thể xảy ra bất cứ mùa nào nhưng mùa lạnh, giá, rét, hanh khô, bệnh thường xảy ra nhiều hơn.

Do sức đề kháng của người cao t.uổi đã suy giảm nên sự thể hiện của bệnh viêm phổi đôi khi không điển hình.

Mùa lạnh, ẩm ướt, mưa, khô hanh là điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật gây bệnh dễ phát triển, trong đó có các vi sinh vật gây bệnh ở đường hô hấp. Trong khi đó, ở đường hô hấp trên có rất nhiều loại vi khuẩn thường xuyên ký sinh ở đó ( phế cầu, não mô cầu, H. influenzae, tụ cầu, liên cầu, vi nấm…), khi sức đề kháng của cơ thể suy giảm vì một lý do nào đó (mắc bệnh n.hiễm t.rùng nào đó, cảm lạnh, dinh dưỡng kém…), chúng sẽ phát triển và gây bệnh, đặc biệt đối với t.rẻ e.m bị còi xương, suy dinh dưỡng hoặc NCT, sức yếu, bị tai biến nằm lâu…

Thêm vào đó, đa số NCT thường có mắc thêm một số bệnh mãn tính ( thoái hóa khớp, tăng huyết áp, đái tháo đường, viêm phế quản mạn tính, hen suyễn, giãn phế quản, viêm họng mũi mạn tính…), các loại bệnh này về mùa lạnh thường tái phát hoặc nặng thêm, càng làm cho sức khỏe NCT suy giảm dễ mắc viêm phổi. Mùa lạnh, rét, NCT nếu mặc không đủ ấm, ăn uống thiếu chất dinh dưỡng, tắm rửa bằng nước lạnh, phòng ngủ có gió lùa và thiếu chăn, đệm càng dễ mắc bệnh viêm phổi. Nếu NCT nghiện t.huốc l.á, thuốc lào hoặc sống ở vùng có nhiều khói bụi, vệ sinh môi trường kém vào mùa lạnh bệnh viêm phổi càng dễ xuất hiện.

NCT do sức đề kháng đã suy giảm, nhất là người mắc các bệnh mạn tính kèo dài, tai biến mạch m.áu não cho nên khi bị mắc bệnh n.hiễm t.rùng, trong đó có bệnh viêm phổi, có một số đặc điểm cần lưu ý. Viêm phổi NCT có một số đặc điểm khác với viêm phổi ở người trẻ t.uổi, t.rẻ e.m. Viêm phổi ở NCT ít khi có khởi phát đột ngột, rầm rộ, bệnh thường âm ỉ, không có biểu hiện rõ ràng, các triệu chứng không thật sự điển hình. Vì vậy, sốt thường không cao (khoảng 37,30 – 38,00C), đặc biệt có những trường hợp NCT viêm phổi nhưng không sốt (suy dinh dưỡng, suy kiệt, nằm lâu…). Đa số các trường hợp là sốt, có kèm theo rét run (khoảng 30%), đau tức ngực và ho. Người bệnh thấy lạnh, rét phải mặc thêm áo, đắp chăn, sợ gió lùa. Ho, lúc đầu ho khan, vài ngày sau ho có đờm màu xanh, vàng hoặc đục hoặc đôi khi có ít m.áu (do khi khạc đờm áp lực mạnh làm vỡ một số mao mạch ở họng gây chảy một ít m.áu). Tuy vậy, ho thường yếu, thỉnh thoảng mới ho, tiếng ho không mạnh và ho từng tiếng hoặc cơn ho ngắn. Kèm theo ho thường có cảm giác tức ngực hoặc đau ngực. Người bệnh thở gấp, nhanh kèm theo có tiếng khò khè và có thể khó thở. Khó thở có thể xảy ra ngay khi gắng sức, khi ho và có thể cả khi nghỉ ngơi.

Để chẩn đoán viêm phổi ngoài các dấu hiệu lâm sàng, t.iền sử của bệnh (có mắc các bệnh mạn tính gì hay không, nhất là các bệnh về đường hô hấp như: Viêm họng mạn tính, hen suyễn, giãn phế quản, tâm phế mạn…), cần chụp X-quang phổi, trong trường hợp cần thiết có thể chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc tốt hơn là chụp cộng hưởng từ (MRI). Ngoài ra, nên xét nghiệm công thức m.áu, tốc độ m.áu lắng, xét nghiệm đờm, nhầy họng để xác định vi khuẩn, vi nấm và thực hiện kỹ thuật kháng sinh đồ nhằm giúp bác sĩ điều trị tham khảo trong việc lựa chọn kháng sinh thích hợp để điều trị.

Do sức đề kháng của người cao t.uổi đã suy giảm nên sự thể hiện của bệnh viêm phổi đôi khi không điển hình. Vì vậy, khi thấy mệt mỏi, tức ngực, sốt nhẹ, ho cần đi khám bệnh càng sớm càng tốt để được xác định bệnh, trên cơ sở đó sẽ được điều trị kịp thời.

Về phòng bệnh, NCT cần tránh lạnh đột ngột cho nên hàng ngày việc tắm, rửa cần có nước ấm, tắm ở buồng kín gió, tắm xong cần lau khô người, đầu tóc, mặc quần áo ngay và không nên tắm lâu. Nếu NCT sức yếu không tự tắm được, hoặc tinh thần không minh mẫn nên có sự hỗ trợ của người nhà, người giúp việc. Hàng ngày NCT cần vệ sinh sạch sẽ họng miệng bằng hình thức đ.ánh răng, súc họng sau khi ăn, trước và sau khi ngủ dậy. NCT có hàm răng giả, cần vệ sinh hàng tuần hoặc vài ba ngày một lần. Vào mùa lạnh, mưa rét nên hạn chế đi ra đường, nếu công việc không thể trì hoãn, cần thiết mặc ấm, chân tay cần có tất, cổ quàng khăn ấm, đầu đội mũ ấm và đeo khẩu trang. Đồng thời nên có chế độ dinh dưỡng hợp lý để tăng sức đề kháng và không nên hút thuốc. Nên vận động cơ thể hàng ngày bằng các động tác tập thể dục buổi sáng và tập hít thở đều (hít sâu, thở ra từ từ).

Đức Trân

Theo daidoanket

Ho có đờm lâu ngày không hết là bệnh gì?

Ho có đờm lâu ngày không hết có thể tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm. Ho có đờm kéo dài trên 3 tuần là biểu hiện của bệnh mạn tính, cần được chẩn đoán và điều trị sớm.

Ho có đờm lâu ngày không hết là bệnh gì?

Vì sao có đờm trong họng khi ho?

Ho không phải là một bệnh mà là một triệu chứng, được coi là phản xạ của cơ thể giúp đẩy dị vật và các tác nhân có hại xâm nhập vào đường hô hấp qua mũi miệng. Thông thường triệu chứng ho có đờm chỉ xảy ra khi trong đường thở có chất xuất tiết sinh ra quyện lẫn với tạp chất.

Chất xuất tiết gồm có hồng cầu, bạch cầu mủ, các chất độc hại xâm nhập vào đường hô hấp (bụi, vi sinh vật..). Các chất này được tiết ra từ phế nang, phế quản, họng… Thông thường lượng tiết dịch đờm khoảng 100ml/24 giờ sẽ được nuốt hoặc đào thải qua đường tiêu hóa, mũi họng. Lượng tiết nhiều hơn sẽ được đẩy ra ngoài khi ho khạc nhổ.

Đa số tình trạng ho có đờm đều xuất phát từ nguyên nhân lành tính nhưng do không được điều trị đúng cách và dứt điểm nên tình trạng trở nên xấu và nghiêm trọng hơn. Tình trạng ho có đờm lâu ngày không khỏi lại là dấu hiệu của nhiều bệnh hô hấp nguy hiểm.

Chất xuất tiết từ phế nang là nguyên nhân gây ho có đờm

Những bệnh thường gặp gây ho có đờm

1. Bệnh cấp tính

Ho có đờm thường là triệu chứng của các bệnh cấp tính như: cảm lạnh, viêm họng mũi cấp, viêm amiđan cấp hoặc viêm xoang cấp, viêm thanh, khí quản cấp. Sở dĩ viêm xoang cấp cũng gây ho và có đờm là do khi viêm xoang, các xoang bị viêm sẽ bị tắc, kèm theo bị nghẹt mũi, các chất nhầy tiết ra sẽ chảy xuống mặt sau của cổ họng.

Vào ban ngày, các dịch nhầy này được người bệnh xì ra hoặc tự trôi xuống đường tiêu hóa. Nhưng về ban đêm, dịch nhầy dễ ứ lại nơi cổ họng và kích thích gây ho. Chứng nghẹt mũi do viêm xoang khiến người bệnh khi ngủ dễ phải thở bằng miệng, do vậy họng rất dễ khô, rát và bị ho về đêm.

Viêm họng là nguyên nhân gây ho có đờm thường gặp

2. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Một loại bệnh gây ho và có nhiều đờm kéo dài là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Bệnh nhân thường ho khạc đờm có màu trắng, thường gặp ở những người có thói quen hút t.huốc l.á, làm việc lâu ngày ở môi trường độc hại.

Bệnh có thể nhầm lẫn với bệnh hen suyễn. Bệnh hen suyễn gây triệu chứng khó thở kèm theo ho khan và có nhiều đờm (do xuất tiết nhiều), khi khạc được đờm, cơn hen có thể giảm dần. Đờm thường có màu trắng và dính.

Cũng cần lưu ý bệnh khí phế thũng là một yếu tố trong sự tiến triển của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) hay có thể gọi là biến chứng của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính gây khí phế thũng. Bệnh khí phế thũng gây ho và có nhiều đờm và kéo dài, bệnh tiến triển ngày một xấu đi nếu điều trị không đúng, không kịp thời.

Cơ chế gây ho có đờm ở bệnh nhân COPD

3. Bệnh viêm phế quản mạn tính

Một số bệnh đường hô hấp dưới mạn tính gây ho có đờm kéo dài như viêm phế quản mạn tính. Bệnh viêm phế quản mạn được đặc trưng bởi sự tạo lập đờm nhớt nhiều trong phế quản. Triệu chứng đặc trưng của bệnh lý này là ho khạc đờm kéo dài từng đợt hoặc liên tục và tổng thời gian ho khạc đờm ít nhất 90 ngày trong 1 năm và ít nhất 2 năm liên tiếp.

Đờm thường có màu trắng đục, về sau có màu vàng; đờm nhày hoặc nhầy mủ trong đợt cấp. Đờm của viêm phế quản mạn thường khạc nhiều vào buổi sáng với lượng ít. Đờm thường là màu trắng đục, đặc biệt có thể thấy màu vàng (có thể do họ cầu khuẩn gây bệnh, nhất là tụ cầu vàng sản sinh ra sắc tố màu vàng) hoặc màu xanh (có thể do trực khuẩn mủ xanh, bởi vì trực khuẩn này sản sinh ra sắc tố màu xanh).

T.rẻ e.m là đối tượng dễ mắc bệnh viêm phế quản

4. Bệnh giãn phế quản

Một trong số những bệnh gây ho có đờm kéo dài lâu ngày là giãn phế quản. Bệnh do viêm phế quản cấp và mạn tính không điều trị dứt điểm. Bệnh gây ho kéo dài, xuất tiết nhiều nhất là ban đêm bởi vì khi nằm các chất xuất tiết (đờm) ứ đọng nhiều gây ho.

Giãn phế quản có thể dẫn đến một số hậu quả xấu cho người bệnh. Các trường hợp ổ giãn phế quản tồn tại một thời gian dài, không phát hiện sớm và điều trị đúng thì giãn phế quả có thể lan rộng ra. Sau nhiều đợt bội nhiễm tái phát, gây áp-xe phổi hoặc gây mủ phế quản, mủ phổi, mủ màng phổi, xơ phổi, khí phế thũng và vẫn gây ho có đờm.

Bệnh giãn phế quản gây ho nhiều vào buổi sáng khi thức dậy, đờm màu trắng đục như mủ thường đóng thành khuôn.

5. Bệnh lao phổi

Một bệnh khác gây ho và có đờm kéo dài đó là bệnh lao phổi. Đa số bệnh lao phổi thường gây ho, khạc đờm màu trắng đục như sữa hay nước vo gạo, đôi khi lẫn m.áu đỏ tươi.

Ảnh mô phỏng tụ cầu vàng gây lao phổi

Ngoài lao phổi, có nhiều bệnh tại phổi cũng gây ho có đờm như áp-xe phổi, viêm phổi. Khi bị áp-xe phổi, nếu ho mạnh có thể gây ọc mủ và thường xuất hiện từng đợt. Đặc điểm là mủ có mùi hôi rất khó chịu, nhất là áp-xe phổi do tụ cầu vàng (S.aureus). Bệnh gây tổn thương nặng ở phổi và thường phải phẫu thuật loại bỏ ổ áp-xe.

Viêm phổi thường gây ho có đờm vàng, màu gỉ sét, kèm theo hội chứng n.hiễm t.rùng, đau tức ngực ở vùng phổi bị viêm. Bệnh lý này rất nguy hiểm có thể dẫn tới suy hô hấp và t.ử v.ong, tuy nhiên bệnh có thể điều trị khỏi được nếu phát hiện sớm.

Sản phẩm Đông y thế hệ 2 hiệu quả vượt trội điều trị ho, viêm họng

Đông y từ lâu đã được sử dụng để điều trị các bệnh như viêm họng gây ho. Không chỉ làm giảm triệu chứng, một số bài thuốc Đông y còn có tác dụng thanh nhiệt, chống viêm, tiêu sưng, do đó có hiệu quả lâu dài, phòng ngừa bệnh tái phát.

Từ bài thuốc gia truyền kỳ diệu trong dân gian kết hợp với dây chuyền sản xuất hiện đại chuẩn GMP-WHO, thuốc Đông y thế hệ 2 ra đời điều tri hiệu quả viêm họng, viêm loét miệng lưỡi, miệng môi sưng đau, sưng đau răng lợi, c.hảy m.áu chân răng, hôi miệng. Thuốc được đông đảo bệnh nhân đ.ánh giá cao bởi độ an toàn và tính hiệu quả.

Nguyên Hải

Theo Đời sống Plus/GĐVN

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *