Trầm cảm – sát thủ vô hình

Cổ tay trái của ông Đăng, 57 t.uổi, ở Hà Nội, có một vết sẹo lồi, dấu tích để lại từ lần t.ự s.át bất thành hồi giữa tháng 8.

Ông Đăng bị trầm cảm 24 năm, t.ự s.át không thành ba lần. Bác sĩ Nguyễn Hữu Chỉnh, Khoa I, Bệnh viện Tâm thần Trung ương I, cho biết tình trạng trầm cảm của ông Đăng rất nặng, điều trị dài ngày.

Bệnh án ghi nhận người đàn ông vốn là lái xe cho một công ty vận tải tại Hà Nội. Năm 1996, công ty giải thể, ông thất nghiệp, đ.âm ra buồn chán, hụt hẫng, sa đà vào rượu, từ đó mắc trầm cảm. Gia đình động viên, đưa ông tới Bệnh viện Bạch Mai chữa trị. Sau hai tháng nhập viện, bệnh tình thuyên giảm, bác sĩ cho ra viện, điều trị ngoại trú.

Năm 2004, ông tái phát trầm cảm. Trong thời gian này, con trai mới sinh 27 ngày của ông mất đột ngột, ông trầm cảm nặng hơn, thường u uất. Có lần ông uống một lúc hai vốc đầy loại thuốc hàng ngày điều trị bệnh, ý đồ t.ự t.ử. Vợ ông kịp thời phát hiện, đưa tới Bệnh viện Bạch Mai để cấp cứu.

Lần thứ hai, ông tuyệt thực 16 ngày mặc cho người nhà thuyết phục hết lời. Cơ thể gầy gò, hốc hác, nặng hơn 30 kg, ông cứ nằm yên một chỗ cho đến khi gần ngất xỉu thì được người nhà đưa đi Bệnh viện Quân y 103 cấp cứu, ra viện sau 20 ngày điều trị.

Tháng 8, ông t.ự t.ử lần thứ ba bằng cách lấy mảnh sắt rạch cổ tay trái, được đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Sơn Tây. Ngày 1/9 ông vào Bệnh viện Tâm thần Trung ương I điều trị.

“Tôi tự nhiên cảm thấy buồn bã, ủ rũ, thui thủi một mình trong nhà, nghĩ chán đời… Tôi hay nói với vợ là ‘anh sống chỉ làm gánh nặng cho em thôi’. Một khó khăn nhỏ bằng móng tay cũng nghĩ nó to ra, rồi nghĩ ‘c.hết cho xong’”, ông Đăng chia sẻ, ngày 25/9.

Bác sĩ Chỉnh cho biết ông Đăng trầm cảm ngày càng nặng do không tuân thủ uống thuốc theo toa bác sĩ khi về nhà điều trị ngoại trú. Về nguyên tắc điều trị, người bệnh trên 45 t.uổi phải dùng thuốc chống trầm cảm cả đời. Thuốc chỉ có tác dụng điều trị triệu chứng, bệnh sẽ không bột phát nếu bệnh nhân không uống đủ thuốc.

Bác sĩ hỏi chuyện bệnh nhân tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương I. Ảnh: Văn Phong.

Ông Đăng nhập viện Tâm thần Trung ương ngày 1/9 với tay trái bó nẹp, hiện sức khỏe tâm thần đã cải thiện hơn, khí sắc trầm trên gương mặt đã giảm. Tuy nhiên, ông chưa trở về trạng thái bình thường, chưa thể ngủ, vẫn còn buồn chán, bi quan, lo âu và còn ý tưởng kết thúc cuộc sống.

“Bệnh nhân vẫn được tiếp tục theo dõi hành vi, duy trì thuốc chống trầm cảm và kiểm tra tâm lý”, bác sĩ Chỉnh cho biết phác đồ điều trị.

Theo bác sĩ Tô Thanh Phương, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Tâm thần Trung ương I, biểu hiện của bệnh trầm cảm rất đa dạng. Triệu chứng chung là buồn rầu, chán nản, bi quan, tuyệt vọng kéo dài hơn hai tuần. Ngoài ra, người bệnh còn giảm các ham muốn, sở thích cá nhân, hay mệt mỏi, giảm tập trung, do dự không quyết đoán, giảm tự tin, nghĩ về tương lai ảm đạm bi quan, rối loạn ý định và hành vi, rối loạn giấc ngủ, ăn uống kém…

Bệnh trầm cảm hình thành trong thời gian dài, thường xuất phát từ 4 nhóm nguyên nhân chính: nhân cách yếu hay mạnh; vấn đề gia đình; vấn đề kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường, ví dụ làm ăn thất bại, học tập áp lực, môi trường ô nhiễm, chơi game… Người mắc các bệnh mạn tính như ung thư, bệnh tim, cũng có thể lâm vào tình trạng u uất, buồn chán.

6 tháng đầu mắc trầm cảm là thời gian vàng để chữa khỏi bệnh. Đây là giai đoạn cấp, người bệnh có thể trở về bình thường khi được điều trị đúng phác đồ, đủ thời gian điều trị. Ngoài 6 tháng, bệnh chuyển mạn tính, quá trình điều trị dai dẳng, phức tạp hơn.

Người trầm cảm thường đến viện khám khi bệnh đã nặng do tâm lý e ngại, muốn giấu hoặc nhầm lẫn bệnh tâm thần với bệnh lý thần kinh khác. Một số ít trường hợp trầm cảm tái phát rồi trở nặng do tự ý bỏ điều trị, không tiếp tục uống thuốc, đưa đi cúng bái. Một bệnh nhân nữ, ở Thường Tín, Hà Nội, từng điều trị ở Bệnh viện Tâm thần Trung ương I, là ví dụ. Cô gái sống với tâm trạng u uất dài ngày, gia đình cho rằng bị ma ám, đưa lên chùa cúng bái. Đến khi cô không thể ăn uống, thường xuyên nghiến răng, tự cắn môi đến c.hảy m.áu, gia đình mới đưa tới Bệnh viện Tâm thần trung ương I điều trị.

“Nếu để chậm hơn, cô gái này có thể t.ự s.át. Sau một thời gian dài điều trị, cô ấy đã khỏi bệnh, lấy chồng rồi sinh con”, bác sĩ Phương nói.

Bác sĩ Đinh Hữu Uân, phòng khám chuyên khoa tâm thần tại Hà Nội, cho biết trầm cảm khiến người bệnh mất ý chí muốn sống, không còn nghĩ tới tương lai và luôn muốn q.uyên s.inh. 70% bệnh nhân t.ự s.át có liên quan các bệnh lý rối loạn về tâm thần bao gồm trầm cảm.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đ.ánh giá trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và góp phần lớn vào gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Bệnh có thể kéo dài hoặc tái phát, ảnh hưởng lớn đến khả năng hoạt động và cuộc đời của một người.

Bác sĩ Uân khuyến cáo nên đến viện khám sức khỏe tâm thần khi có các dấu hiệu bất thường như bỏ ăn, không để ý đến ăn mặc hàng ngày, tính chất cảm xúc bất ổn, thường xuyên nổi nóng vô cớ, đe dọa, có xu hướng tự làm đau bản thân, chống đối gia đình và xã hội…

* Tên bệnh nhân được thay đổi.

Cảnh giác với tình trạng thường xuyên vui, buồn thất thường

Chứng rối loạn cảm xúc lưỡng cực khiến người bệnh vui vẻ vào ban ngày nhưng đến đêm lại bồn chồn, buồn bã, khó ngủ mà không rõ lý do.

Tiến sĩ, bác sĩ Trần Thị Hồng Thu, Phó giám đốc Bệnh viện Tâm thần Ban ngày Mai Hương (Hà Nội), chia sẻ: “Mới đây, tôi khám cho bệnh nhân nữ, 35 t.uổi. Bệnh nhân chia sẻ mình từng có thu nhập không dưới một tỷ đồng. Tuy nhiên, thời gian gần đây, số t.iền này sụt giảm nghiêm trọng nhưng bệnh nhân phải chấp nhận và quyết định không làm gì”.

Sau khi trò chuyện, bác sĩ này phát hiện bệnh nhân vừa kết thúc giai đoạn hưng cảm của chứng rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Ở giai đoạn này, bệnh nhân năng động, sáng tạo hơn.

“Trong giai đoạn hưng cảm, bệnh nhân có nhiều cảm hứng, sáng tạo khiến công việc trôi chảy. Tuy nhiên, khi giai đoạn này kết thúc, bệnh nhân xuất hiệu triệu chứng đau đầu, đau dạ dày, hoa mắt, chóng mặt và hồi hộp”, tiến sĩ Hồng Thu nói.

Trước đó, nữ bệnh nhân đã đi khám tại nhiều nơi, kiểm tra về thần kinh, nội tiết nhưng không thể tìm ra bệnh. Suốt quá trình đó, bệnh nhân này luôn cáu kỉnh, chán nản, buông xuôi trong công việc dù không có lý do.

Tiến sĩ, bác sĩ Trần Thị Hồng Thu, Phó giám đốc Bệnh viện Tâm thần Ban ngày Mai Hương. Ảnh: Quốc Toàn.

Theo tiến sĩ Hồng Thu, tỷ lệ người mắc rối loạn cảm xúc lưỡng cực chiếm khoảng 4% dân số thế giới. Người bệnh sẽ trải qua sự thay đổi cảm xúc liên tục, khi vui vẻ và thừa năng lượng, lúc ngược lại. Rối loạn cảm xúc lưỡng cực ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ và tập trung, gây trở ngại đáng kể cho cuộc sống hàng ngày.

Bệnh này gồm những thái cực cảm xúc đối lập. Chúng xuất hiện lặp lại kéo dài suốt cuộc đời. Tuy nhiên, tình trạng này có thể được kiểm soát, kéo dài thời gian ổn định nhờ can thiệp sớm, uống thuốc đều đặn.

Chúng ta không biết trước được thời điểm nào cảm xúc người bệnh bị thay đổi. Thời gian chuyển đổi giữa 2 thái cực có thể trong một ngày, tuy nhiên, tình trạng này khá hiếm. Thông thường, các giai đoạn sẽ kéo dài vài ngày hoặc nhiều tháng.

Ở giai đoạn hưng cảm, bệnh nhân thường có biểu hiện như luôn lạc quan, vui tươi, phấn khởi, nhiều ý tưởng mới, đ.ánh giá cao bản thân. Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh nhân đều rõ biểu hiện. Một số trường hợp chỉ cảm thấy tràn trề sinh lực, luôn muốn làm việc. Những người này thường khó phát hiện bệnh. Thậm chí, không phải tất cả bệnh nhân đều có biểu hiện và triệu chứng điển hình.

Người mắc rối loạn cảm xúc lưỡng cực rất khó phát hiện bệnh. Ảnh: Rehab Thailand.

Với giai đoạn trầm cảm, bệnh nhân luôn buồn bã, thụ động và chán nản. Quá trình chuyển từ hưng cảm sang trầm cảm có thể tự nhiên xảy ra hoặc do tác động của một biến cố nhất định.

Tiến sĩ Hồng Thu cho hay: “Nữ bệnh nhân kể ban ngày rất vui vẻ, phấn chấn, hoạt bát nhưng về đêm lại bồn chồn, khó ngủ. Nếu bệnh nhân nhận ra điều bất thường này và điều trị ngay ở giai đoạn hưng cảm, các bác sĩ có thể điều trị tâm lý và không cần dùng thuốc”. May mắn, người phụ nữ này đã tới khám ngay khi vừa bước sang giai đoạn trầm cảm.

Người mắc rối loạn cảm xúc lưỡng cực phải được bác sĩ theo dõi để kê đơn kết hợp điều trị tâm lý. Bên cạnh đó, bệnh nhân cần uống thuốc trong thời gian dài để cuộc sống có chất lượng tốt hơn.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *