2 phương pháp điều trị mà GS Nguyễn Thanh Liêm đề xuất có ý nghĩa ra sao?

Những ngày gần đây, mặc dù bệnh nhân t.ử v.ong có giảm nhưng vẫn ở mức xấp xỉ 250 ca/ngày, riêng TP.HCM có trên 160 bệnh nhân tử vong/ngày.

Thủ tướng Chính phủ vừa có ý kiến giao Bộ Y tế nghiên cứu 2 đề xuất để giảm số ca t.ử v.ong của GS Liêm.

Nhân viên y tế chăm sóc cho bệnh nhân đang điều trị tại Bệnh viện hồi sức COVID-19 (TP Thủ Đức) – Ảnh: DUYÊN PHAN

Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa yêu cầu Bộ Y tế nghiên cứu kiến nghị về 2 phương pháp điều trị cho bệnh nhân mắc COVID-19 để giảm ca t.ử v.ong, do giáo sư Nguyễn Thanh Liêm – nguyên giám đốc Bệnh viện Nhi trung ương – đề xuất.

Hai phương pháp này, bao gồm đề nghị truyền huyết tương có chứa kháng thể chống virus SARS-CoV-2 của những người mắc bệnh đã hồi phục cho các bệnh nhân có nguy cơ chuyển nặng. Đây là phương pháp không mới, đã được áp dụng cho nhiều vụ dịch trên thế giới.

Thứ hai, kiến nghị truyền tế bào gốc trung mô từ dây rốn sớm cho các bệnh nhân có biểu hiện suy hô hấp, để ngăn chặn “bão Cytokine” – nguyên nhân t.ử v.ong hàng đầu ở bệnh nhân suy hô hấp. Phương pháp này đã được sử dụng cho suy hô hấp do nhiều nguyên nhân khác nhau.

Trao đổi với T.uổi Trẻ Online , các chuyên gia cho rằng việc truyền huyết tương của người hồi phục chứa kháng thể chống lại virus SARS-CoV-2 có ý nghĩa ở chỗ người đã bị nhiễm COVID-19 bao giờ cũng sinh ra kháng thể t.iêu d.iệt virus.

Sau khi khỏi bệnh, kháng thể chống virus có thể tồn tại nhiều tháng trong m.áu của người đã bị nhiễm. Việc sử dụng huyết tương trong m.áu của người bệnh đã hồi phục truyền cho bệnh nhân khác đã được sử dụng từ rất lâu.

Trong vụ dịch cúm ở Tây Ban Nha (1918-1920), phương pháp này đã được sử dụng, phân tích hồi cứu 1.703 bệnh nhân được sử dụng cho thấy tỉ lệ t.ử v.ong đã giảm. Huyết tương của người hồi phục cũng đã được sử dụng trong nhiều vụ dịch khác như dịch do Ebola, MERS-CoV, cúm H1N1…

Truyền huyết tương người khỏi bệnh có thể giảm 70% tỉ lệ t.ử v.ong?

Theo nhóm chuyên gia trên, một nghiên cứu tổng quan xuất bản năm 2015 cho thấy truyền huyết tương của người hồi phục có thể giảm 70% tỉ lệ t.ử v.ong. Hiệu quả điều trị phụ thuộc vào truyền sớm hay muộn, hiệu giá kháng thể cao hay thấp.

Nghiên cứu truyền sớm huyết tương của người hồi phục có hiệu giá kháng thể cao để ngăn chặn diễn biến nặng COVID-19 ở người cao t.uổi của Linbsster và cộng sự đăng trên tạp chí y học danh tiếng, The New England Journal of Medicine tháng 6-2021, cho kết quả rất đáng chú ý: 160 bệnh nhân được chia làm 2 nhóm, 80 bệnh nhân được truyền 250ml huyết tương, 80 bệnh nhân được truyền 250ml huyết thanh mặn.

Kết quả cho thấy truyền huyết tương đã giảm được 48% số bệnh nhân chuyển nặng. Các tác giả đã truyền huyết tương có hiệu giá kháng thể cao và truyền sớm trong vòng 72 giờ từ khi có biểu hiện bệnh. Mặc dù đối tượng được truyền là người cao t.uổi nhưng không có bất cứ biến chứng nghiêm trọng nào xảy ra.

Chi phí 1 lần truyền huyết tương ở Brazil là 185 USD. Tại Việt Nam, Viện nghiên cứu Vinmec đã phối hợp với Bệnh viện Bệnh nhiệt đới trung ương tiến hành lấy huyết tương và dự trữ, nhưng chưa truyền cho người bệnh vì năm 2020 không có bệnh nhân ở Hà Nội.

Điều trị cho bệnh nhân gặp “bão cytokine” bằng truyền tế bào gốc

Khi bệnh nhân đã suy hô hấp do cơn bão cytokine thì hiện nay chưa có phương pháp điều trị hiệu quả. Tỉ lệ t.ử v.ong rất cao, theo một số báo cáo lên đến 70%. Cho đến nay đã có 7 báo cáo về truyền tế bào gốc trung mô, 4 nghiên cứu ở pha I và 3 nghiên cứu ở pha II có so sánh với nhóm chứng không truyền.

Một nghiên cứu gần đây đăng trên tạp chí Stem cell Translational Medicine cho thấy truyền tế bào gốc đã tăng tỉ lệ sống lên 2,5 lần so với nhóm không truyền. Khi phân tích sâu thêm cho nhóm có bệnh nền, tỉ lệ sống đã tăng lên 4 lần.

Cơ chế tác dụng: tế bào gốc trung mô điều hòa phản ứng miễn dịch, làm dịu bớt cơn bão cytokine, giảm việc giải phóng các cytokine độc hại, chống xơ phổi, tái tạo nhu mô phổi, giảm quá trình c.hết tế bào… Tại Việt Nam đang có một cơ sở có thể sản xuất tế bào gốc trung mô với số lượng lớn.

Hiện tỉ lệ t.ử v.ong bệnh nhân COVID-19 tại Việt Nam vào khoảng 2,5%, cao hơn bình quân chung của thế giới (thế giới tỉ lệ này khoảng 2,1%), riêng tại TP.HCM, tỉ lệ này lên đến 4%.

Có nên áp dụng?

Trong 7 ngày gần đây nhất, bình quân mỗi ngày có 234 bệnh nhân COVID-19 t.ử v.ong, giai đoạn cao điểm (tháng 8 vừa qua), con số này có thể lên tới 340 ca/ngày. Giảm tối đa số ca t.ử v.ong là yêu cầu quan trọng nhất thời gian qua, và thực tế số ca t.ử v.ong có giảm nhưng còn chậm.

Một đại diện Bộ Y tế cho biết trong 2 phương pháp mới được GS Liêm đề xuất, phương pháp truyền huyết tương bệnh nhân khỏi bệnh cho người bệnh nặng đã được Bệnh viện Bệnh nhiệt đới trung ương nghiên cứu từ năm 2020. Hiện các mẫu huyết tương có đủ tiêu chuẩn điều trị đang được lưu trữ.

“Nếu Chính phủ, Bộ Y tế cho phép tiếp tục triển khai giai đoạn 2 của nghiên cứu thì chúng tôi có thể triển khai lấy thêm huyết tương, chọn bệnh nhân đủ tiêu chuẩn để điều trị. Quan trọng ở đây là bệnh nhân đủ tiêu chuẩn vì bản chất sử dụng huyết tương như sử dụng thuốc, phải chỉ định đúng ca bệnh” – thành viên nhóm nghiên cứu tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới trung ương cho biết.

Vì vậy, truyền cho bệnh nhân nào, đối tượng nào, đ.ánh giá sơ lược biện pháp đó có an toàn, hiệu quả hay không… là những đ.ánh giá quan trọng nếu áp dụng phương pháp này, không phải áp dụng được cho mọi nhóm bệnh nhân.

“Truyền ở giai đoạn sớm, ở bệnh nhân có nồng độ virus cao, hoặc thể trung bình nhưng xét nghiệm ghi nhận chưa đủ kháng thể trung hòa virus thì nguy cơ diễn biến nặng có thể giảm” – nhà nghiên cứu kể trên cho biết.

Sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng sau cơn sốt mò

Bệnh nhân sốt mò thường nhập viện trong tình trạng xuất huyết, sốt cao, phù nề, khó thở, dễ t.ử v.ong nếu không điều trị kịp thời.

Bác sĩ Hoàng Công Tình, Trưởng Khoa Hồi sức tích cực – Chống độc, Bệnh viện đa khoa tỉnh Hoà Bình, ngày 21/9 cho biết, gần đây bệnh viện tiếp nhận nhiều bệnh nhân sốt mò. Đa số người bệnh nhập viện khi đã ở giai đoạn muộn với các biểu hiện sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng, phải dùng thuốc vận mạch để nâng huyết áp, thở máy, lọc m.áu, thay huyết. Trong đó, một trường hợp đã t.ử v.ong do đến viện quá muộn, không đáp ứng với điều trị.

Một bệnh nhân nữ, 50 t.uổi, ở thị trấn Lương Sơn, xuất hiện nốt mò ở vùng nếp lằn bên phải sau khi làm vườn về. Vết thương không đau, không nóng. Vài ngày sau, bà sốt liên tục, mệt…

Một người đàn ông, 48 t.uổi, ở Tân Pheo, Đà Bắc, công việc chính là chăm sóc vườn cây ở trên đồi gần nhà. Anh xuất hiện vết mò đốt ở vùng thắt lưng bên trái, hơi ngứa mà không để ý. Sau đó, anh sốt cao liên tục, khó thở.

Theo bác sĩ Tình, hai bệnh nhân tự mua thuốc hạ sốt ở nhà uống nhưng không cải thiện, đến khi tình trạng khó thở nặng lên mới đến viện. Cả hai nhập viện đều sốt cao liên tục, rối loạn nước, điện giải, suy đa tạng, suy hô hấp do viêm phổi, tràn dịch màng phổi, suy gan cấp và tổn thương thận cấp.

Bệnh nhân phải thở máy không xâm nhập, dùng thuốc vận mạch, bổ sung điện giải và sử dụng kháng sinh đặc hiệu với Rickettsia. Hiện, họ sốt, không thở máy, chỉ còn thở oxy, chức năng gan thận tốt hơn, cần tiếp tục theo dõi.

Bác sĩ điều trị cho bệnh nhân. Ảnh: Bác sĩ cung cấp

Sốt mò là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn Rickettsia orientalis (Orientia tsutsugamushi) gây nên, tỷ lệ t.ử v.ong cao nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị đặc hiệu.

Bệnh có biểu hiện đa dạng, rất dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác, không có xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán. Sốt, đau đầu, đau mỏi khắp người, vết loét ngoài da do mò đốt (dấu hiệu đặc trưng của sốt mò), phát ban, sưng các hạch, tồn thương đa cơ quan (đặc biệt là phổi, tim, gan…) là dấu hiệu chủ yếu của bệnh.

Bệnh không lây từ người sang người. Thời gian ủ bệnh 6-21 ngày (kể từ khi bị ấu trùng mò đốt). Bệnh nhân thường sốt cao liên tục, kèm theo rét run, đau đầu, đau mỏi người. Vết loét ngoài da do mò đốt lúc đầu là nốt phỏng tiến triển thành hình bầu dục trên nền sẩn đỏ. Vết loét gặp trong khoảng 80% các trường hợp bệnh, thường ở vùng da mềm: nách, bẹn, ngực, cổ, bụng, vành tai hoặc một số ít có thể gặp vết loét ở lưng, mi mắt, rốn.

Tổn thương các tạng thường gặp nhất là phổi với tình trạng viêm phổi, tràn dịch màng phổi gây suy hô hấp cấp phải hỗ trợ bằng thở máy. Tiếp đến là gan với tình trạng tổn thương tế bào gan phải hỗ trợ bằng lọc m.áu liên tục và thay huyết tương. Bệnh nhân có thể bị tụt huyết áp, viêm cơ tim, viêm não, viêm màng não…

Bệnh có thể gặp rải rác trong năm nhưng hay gặp chủ yếu về mùa mưa và nắng nóng. Mầm bệnh Rickettsia orientalis có ở trên ấu trùng mò và một số loài vật gặm nhấm, thú nhỏ (chủ yếu là ở chuột, chim, gà, chó), được truyền sang người qua vết đốt của ấu trùng mò (Leptotrombidium).

Vết loét ngoài da do mò đốt lúc đầu là nốt phỏng tiến triển thành hình bầu dục trên nền sẩn đỏ. Ảnh: Bác sĩ cung cấp

Sốt mò nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị kháng sinh đặc hiệu thì dễ dẫn đến suy đa tạng và t.ử v.ong. Bác sĩ cho biết kháng sinh điều trị sốt mò là những kháng sinh thế hệ cũ, giá thành thấp nhưng rất đặc hiệu với sốt mò. Vì sốt mò không có xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán xác định, biểu hiện của sốt mò rất giống với các bệnh lý nhiễm khuẩn khác nên dễ nhầm và bỏ sót bệnh, đặc biệt là các trường hợp không tìm được vết mò đốt và bệnh đã ở giai đoạn nặng khi đã có suy đa phủ tạng.

Nhiều trường hợp không cắt nghĩa được nguyên nhân của tình trạng suy đa phủ tạng. Khi đã sử dụng các loại kháng sinh thế hệ mới mà không kiểm soát được tình trạng nhiễm khuẩn, dựa vào yếu tố dịch tễ, bác sĩ có thể điều trị thử theo phác đồ sốt mò. Nếu đúng là sốt mò thì tình trạng nhiễm khuẩn của bệnh nhân cải thiện rất nhanh chóng, đặc biệt là dấu hiệu sốt, sau đó là cải thiện các tạng bị suy.

Để tránh ấu trùng mò đốt, bác sĩ khuyến cáo khi đi vào nương rẫy, đồi núi, mọi người cần mặc quần áo kín, quần áo có tẩm hóa chất chống côn trùng như benzyl benzoate, bôi hóa chất xua côn trùng lên các vùng da hở. Tránh ngồi, nằm, phơi quần áo, đặt balô trên bãi cỏ, gần bờ bụi, gốc cây. Diệt chuột, sử dụng hóa chất diệt côn trùng…

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *