Một bệnh nhân phải nhập viện trong tình trạng bụng cứng, đau dữ dội, được chẩn đoán viêm tụy cấp do lạm dụng rượu bia.
Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết, đơn vị đã tiếp nhận nam bệnh nhân (ở Hà Nội trong tình trạng bụng cứng, đau dữ dội sau bữa nhậu. Qua kiểm tra cho thấy, chỉ số Triglyceride (một dạng chất béo) lên đến 42mmol/l, tức là cao gấp hơn 20 lần ở người bình thường.
Viêm tụy cấp là một quá trình tổn thương cấp tính của tụy.
Thông tin về ca bệnh, bác sĩ Đoàn Duy Thành, Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết, qua khai thác, năm 2018, bệnh nhân cũng từng phải nhập viện vì viêm tụy cấp sau thời gian dài lạm dụng bia rượu.
Sau đó, bệnh nhân thấy sức khỏe dần phục hồi nên tiếp tục sử dụng rượu bia. Đặc biệt, sau dịp nghỉ Tết, trường hợp này tham gia nhiều cuộc liên hoan. Hậu quả, bệnh nhân được chẩn đoán viêm tụy cấp do rối loạn lipid. Viêm tụy cấp bị hủy hoại các mô tụy một cách ồ ạt do men tụy tiết đột ngột.
Theo bác sĩ Đoàn Duy Thành, viêm tụy cấp là một quá trình tổn thương cấp tính của tụy. Bệnh thường xảy ra đột ngột với những triệu chứng lâm sàng đa dạng, phức tạp từ viêm tụy cấp nhẹ đến mức độ nặng (thể hoại tử) với các biến chứng suy đa tạng nặng nề, tỷ lệ t.ử v.ong cao.
Nhiều nguyên nhân dẫn đến viêm tụy cấp như sỏi mật, giun ký sinh, các bệnh lý rối loạn chuyển hóa, đái tháo đường và một nguyên nhân khá phổ biến (gặp phải ở bệnh nhân này) là rối loạn chuyển hóa lipid do lạm dụng bia rượu.
Theo bác sĩ, với ca bệnh này, cách điều trị hiệu quả là lọc huyết tương phối hợp với thuốc insulin đường tĩnh mạch và thuốc giảm mỡ m.áu. Vì chỉ số Triglyceride quá cao, phần huyết tương lọc tách thải ra bên ngoài có màu trắng đục như sữa.
Đáng chú ý, trong 2 lần lọc đầu, máy báo lỗi liên tục vì huyết tương quá đặc. Bệnh nhân lọc m.áu 3 lần trong 3 ngày liên tiếp. Lần lọc đầu tiên, chỉ số Triglyceride của bệnh nhân từ 42mmol/l xuống 32mmol/l; lần thứ hai xuống 11mmol/l và sau lần lọc thứ ba xuống 6mmol/l.
Sau điều trị, bệnh nhân đã tiến triển rõ rệt, nồng độ Triglyceride trở về gần như bình thường, tình trạng đau bụng thuyên giảm nhiều, bụng mềm hơn. Đây là trường hợp khá may mắn.
Nhiều bệnh nhân viêm tụy cấp mức độ nặng có thể đi vào sốc nhiễm khuẩn hoặc suy đa tạng, viêm phổi phải đặt ống thở máy.
Việc điều trị sẽ phức tạp hơn rất nhiều. Trong trường hợp b.ị h.oại t.ử mô tụy, các bác sĩ phải chọc hút ổ hoại tử, thậm chí là phải phẫu thuật.
Thông tin thêm về bệnh viêm tụy cấp, bác sĩ chuyên khoa I Đào Việt Hưng, Chuyên khoa Nội, Bệnh viện Đa khoa Medlatec cho hay, tụy có vai trò đặc biệt quan trọng, đó là nơi sản xuất ra dịch tụy chứa các enzyme tiêu hóa quan trọng. Nhờ các enzyme này, thức ăn mới được phân giải thành acid amin cấu trúc đơn giản, cho phép cơ thể hấp thu và sử dụng.
Viêm tụy cấp thường gây giảm sản sinh enzyme này, làm rối loạn tiêu hóa. Ngoài ra, tuyến tụy cũng là cơ quan sản sinh insulin – hormone có vai trò điều chỉnh đường huyết. Viêm tụy thường dẫn tới đái tháo đường do thiếu hụt insulin.
Cũng theo bác sĩ Hưng, viêm tụy cấp là tình trạng tuyến tụy bị viêm sưng đột ngột, xảy ra trong thời gian ngắn, bệnh có thể diễn tiến đến suy cơ quan, n.hiễm t.rùng huyết, hoại tử tụy… nếu không điều trị kịp thời biến chứng nguy hiểm hơn gây t.ử v.ong.
Bệnh lý này do nhiều nguyên nhân gây nên, trong đó chủ yếu là do sỏi mật, bia rượu, tăng mỡ m.áu, thuốc hoặc do virus…
Khi mắc viêm tụy cấp, người bệnh thường có dấu hiệu đau bụng trên, hoặc lan ra sau lưng, sốt, mạch nhanh, buồn nôn, nôn, chướng bụng, chán ăn…
Tuy nhiên, những biểu hiện này dễ gặp trong những bệnh lý khác (tiêu biểu như bệnh dạ dày) khiến người dân chủ quan, không thăm khám kịp thời, có thể để lại hậu quả khôn lường.
Vì vậy, khi có dấu hiệu bất thường nào của cơ thể, người dân nên đến cơ sở y tế uy tín để được thăm khám kịp thời và kiểm soát bệnh lý sớm nhất.
Để tránh xa viêm tụy, bác sĩ khuyên người dân nên thực hiện lối sống khoa học và thực hiện kiểm tra định kỳ, cụ thể như sau: Ăn uống lành mạnh, khoa học với chế độ ăn nhạt để tránh sỏi mật, bổ sung chất xơ trong mỗi bữa ăn như rau cải xanh, nấm, khoai lang…; bỏ t.huốc l.á, hạn chế uống bia rượu; tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày; khám sức khỏe định kỳ, nhất là người bị mỡ m.áu, tiểu đường…
Rau bợ nước mọc hoang chữa nhiều bệnh
Rau bợ nước mọc hoang ở ruộng nước nông, dọc bờ ao, bờ mương và các nơi ẩm, nước cạn.
Ngoài sử dụng như món rau thông thường, rau bợ nước còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh.
Công dụng của rau bợ nước
Rau bợ nước còn có tên gọi khác là rau cỏ bợ, rau tần, tú diệp thảo, điền tu thảo, dạ hợp thảo. Rau bợ nước có tênkhoa học là Marcilea quadrifolia L., thuộc họ Tần Marcileaceae.
Rau bợ nước có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, quy vào hai kinh can và thận; có tác dụng lợi tiểu, thanh nhiệt, giải độc, tiêu sưng, trấn tĩnh, nhuận gan, sáng mắt.
Trong Y học cổ truyền, rau bợ nước chữa đái tháo đường, đái ra m.áu, viêm thận gây phù, sỏi tiết niệu, bệnh về thần kinh như điên cuồng sốt cao, suy nhược thần kinh, động kinh, các chứng sưng đau như viêm kết mạc, viêm lợi, viêm gan, đau răng, đinh nhọt, tắc tia sữa, sưng vú, bạch đới, khí hư và rắn độc cắn.
Ngoài ra, rau bợ nước còn thường được nhân dân ta dùng làm rau ăn sống, xào, luộc hoặc nấu canh.
Liều dùng và cách dùng:Cây hái tươi hoặc phơi khô, sao vàng, pha trà uống hoặc sắc với nước; mỗi ngày dùng khoảng 20 – 30g. Có thể dùng đơn độc hoặc phối hợp với các vị thuốc khác; cũng có thể làm rau ăn sống hoặc nấu canh.
Món ăn, bài thuốc có rau bợ nước
Trị khí hư, mất ngủ, sỏi thận, sỏi mật
Rau bợ nước 20 – 40g sắc uống.
Rau bợ nước.
Trị rắn cắn
Rau bợ nước tươi 40 – 60g giã nhuyễn, nước cốt uống, bã đắp nơi bệnh.
Trị nóng trong người, sinh mụn nhọt
Rau bợ nước tươi 20g giã nát vắt lấy nước cốt. Khi giã, nên thêm chút nước rồi hòa vào 1 bát nước. Chia lượng thuốc nước thành 3 lần và uống trong ngày, bã đắp chỗ mụn (theo Hoa hạ kỳ phương).
Trị bí tiểu , tiểu nóng
Rau bợ nước khô 16g sắc với 3 bát nước đến khi còn 1 bát. Chia thuốc đã sắc thành 3 lần uống, dùng cách nhau 3 giờ và liên tục trong 2 – 3 ngày thì sẽ khỏi (theo Hoa hạ kỳ phương).
Hỗ trợ trị bạch đới (viêm nhiễm phụ khoa)
Rau bợ nước khô 20g sắc với 3 bát nước đến khi còn lại 1 bát. Chia thuốc làm 3 lần uống trong ngày, mỗi lần cách nhau 3 – 4 giờ, uống khi thuốc còn nóng.
Đồng thời nấu một nồi nước cùng với khoảng 32g rau bợ nước khô, pha thêm nước để chỉnh nhiệt độ phù hợp, đổ ra chậu, ngâm và rửa kỹ cửa mình (â.m h.ộ). Có thể tăng lượng rau bợ nước dùng để nước thuốc đậm đặc hơn và cũng tăng tác dụng (Hoa hạ kỳ phương).
Rau bợ nước phơi khô giúp trị bệnh bạch đới.
Trị vú và núm vú bị sưng đau
Rau bợ nước tươi 1 nắm giã nát, trộn với 1 ít nước để vắt lấy nước cốt. Hòa nước cốt này vào 1 ly nước đun sôi để nguội, rồi chia thành 2 lần và uống trong ngày.
Phần bã dùng để đắp lên chỗ bị sưng đau. Lặp lại liều này trong khoảng 2 – 3 ngày thì sẽ khỏi (theo Dã Thái trị bách bệnh dân gian liệu pháp).
Trị tắc tia sữa
Rau bợ nước khô 30g sắc với nửa siêu nước, đến khi còn 1 bát và chia làm 2 lần uống trong ngày, mỗi lần uống cách nhau 4 giờ. Bọc bã vào trong vải và chườm, vuốt xuôi từ trên vú xuống khi còn đang nóng (theo Đắc hiệu phương).
Trị bỏng
Rau bợ nước tươi đủ dùng. Rửa sạch lá, giã nát đắp lên chỗ bị bỏng (theo kinh nghiệm dân gian).
Trị sưng lở, nổi mẩn do nhiệt
Rau bợ nước tươi lượng vừa đủ, giã nát rồi xoa lên chỗ sưng lở, nổi mẩn hoặc vắt lấy nước uống.
Trị sỏi thận, sỏi bàng quang
Rau bợ nước tươi đủ dùng, ngải cứu 10g, phèn đen 10g, đọt non dứa dại 20g. Giã nát rau bợ nước tươi, thêm nước, gạn lấy nước uống. Dùng mỗi lần 1 bát vào buổi sáng, trong 5 ngày liên tiếp. Có thể phối hợp với cây ngải cứu và cây phèn đen, mỗi vị 10g cùng 20g ngọn non cây dứa dại.
Rau bợ nước tươi dược dùng trị sỏi bàng quang
Lưu ý khi sử dụng rau bợ nước
Cần thận trọng khi thu hái và lựa chọn dược liệu để tránh nhầm lẫn rau bợ nước với cỏ chua me lá có hình tim chụm lại.
Cây rau bợ nước thường sống ở nơi có nhiều bùn đất nên trước khi dùng phải rửa thật cẩn thận và sạch sẽ.
Chỉ nên sử dụng phần thân hoặc lá non để ăn hoặc chữa bệnh.
Nên ngâm qua nước muối để khử mùi tanh của bùn.
Nếu có các biểu hiện như lạnh bụng, đi ngoài phân lỏng, khó tiêu thì không nên dùng vì cây rau bợ có tính hàn.