Xuất khẩu khó, ximăng dồn áp lực vào thị trường nội địa

Sản lượng vượt nhu cầu tiêu thụ nội địa nhưng giải pháp xuất khẩu lại không thể thực hiện được bởi ximăng Việt Nam đang chịu bất lợi trong cuộc cạnh tranh về giá khiến các nhà sản xuất trong nước loay hoay chưa tìm ra lối thoát.


Công nhân bốc xếp ximăng xuất khẩu tại cảng Thị Nại.
(Ảnh: Viết Ý/TTXVN)

Sau khi Nghị định số 100/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế và Nghị định số 122/2016/NĐ-CP về Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan lần lượt có hiệu lực từ 1/7 và 1/9/2017 thì xuất khẩu ximăng thực sự gặp khó.

Theo các quy định tại 2 Nghị định này thì sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên khoáng sản, cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản xuất sản phẩm trở lên sẽ được xếp vào đối tượng không được khấu trừ thuế Gía trị gia tăng đầu vào. Áp theo quy định này, các sản phẩm ximăng xuất khẩu sẽ bị áp mức thuế suất 5%. Điều này có thể làm giảm sức cạnh tranh của ximăng Việt Nam.

Ông Trần Việt Thắng – Tổng Giám đốc Tổng công ty ximăng Việt Nam (Vicem) nhận xét, liên tục trong mấy năm trở lại đây, xuất khẩu ximăng sụt giảm không chỉ về khối lượng mà còn cả về giá xuất khẩu. Năm 2014, giá xuất khẩu FOB clinker dao động 38-40 USD/tấn, ximăng vào khoảng 55 USD/tấn và tiếp tục lao dốc trong các năm kế tiếp.

Từ giữa năm 2016, giá xuất khẩu sản phẩm ximăng tiếp tục giảm khoảng 10 USD/tấn so với cuối năm 2015. Hiện giá xuất khẩu FOB clinker dao động khoảng 30 USD/tấn, giảm 20-25% so với năm 2014.

Trong khi đó, nếu tính toán theo quy định mới thì chi phí xuất khẩu có thể tăng lên 4,5 USD cho một tấn clinker (theo giá FOB bình quân 30 USD/tấn) và tăng 7,5 USD/tấn ximăng (tính theo giá FOB bình quân 50 USD/tấn). Với mức giá này thì ximăng Việt Nam không thể cạnh tranh nếu xuất khẩu.

Một số doanh nghiệp cũng đưa ra tính toán, trong năm 2016, ngành ximăng xuất khẩu khoảng 15 triệu tấn sản phẩm, bao gồm cả ximăng và clinker với tổng chi phí tăng khoảng 82,7 triệu USD.

Ước tính giá trị xuất khẩu thu về 556 triệu USD. Với mức thuế suất 5% thì Nhà nước sẽ thu được 27,8 triệu USD, thấp hơn nhiều so với mức chi phí mà các doanh nghiệp phải bỏ ra.

Tiến sỹ Nguyễn Quang Cung – Chủ tịch Hiệp hội ximăng Việt Nam cho rằng, chủ trương của Chính phủ theo Quyết định 1469/QÐ-TTg đến năm 2030, ximăng và clinker Việt Nam cần xuất khẩu từ 20% đến 30% tổng công suất mỗi năm nhưng việc tăng chi phí xuất khẩu lại làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm này.

Như vậy, áp lực lực xuất khẩu sẽ dội ngược trở lại tiêu thụ nội địa và nhiều doanh nghiệp ximăng sẽ phải ngừng sản xuất hoặc phá sản có thể xảy ra. Khi đó, cả hai mục đích là tiết kiệm tài nguyên khoáng sản trong ximăng xuất khẩu và tăng thu ngân sách đều không đạt được – ông Cung phân tích.

Năm 2016, tổng công suất thiết kế các dây chuyền sản xuất ximăng của Việt Nam đạt 88 triệu tấn và tiêu thụ ở mức 75 triệu tấn. Tổng công suất thiết kế của Việt Nam đến hết năm 2020 là 93-95 triệu tấn và có thể đạt 130 triệu tấn vào năm 2030. Thế nhưng, đến hết năm 2018 tiếp tục có thêm 20 triệu tấn ximăng cung ra thị trường đưa nguồn cung sản lượng đến hết năm 2020 đạt con số 108 triệu tấn.

Với đà tăng trưởng được xem là khả quan như hiện nay thì lượng ximăng tiêu thụ mỗi năm cũng chỉ tăng được từ 4%-6%, tính cả xuất khẩu – tương đương mức tăng 3-4,5 triệu tấn/năm. Như vậy, đến năm 2020, mức tiêu thụ dự báo cũng chỉ đạt từ 78-93 triệu tấn và ngành ximăng vẫn thừa 15 triệu tấn so với công suất thiết kế.

Thị trường tiêu thụ ximăng nội địa vẫn tiếp diễn theo quy luật “thừa Bắc thiếu Nam.” Hàng năm, tiêu thụ ximăng tại phía Nam chiếm khoảng 42% thị phần nội địa, tương đương 25 triệu tấn nhưng công suất của các nhà máy và trạm nghiền tại khu vực này chỉ vào khoảng 15 triệu tấn. Thế nên, việc đánh thuế xuất khẩu sẽ không gây bất lợi cho các doanh nghiệp phía Nam vì chủ yếu là tiêu thụ nội địa. Trong khi đó, sức ép được dự báo sẽ dồn gánh nặng lên các doanh nghiệp sản xuất ximăng phía Bắc và miền Trung kể từ năm 2017 – các chuyên gia cảnh báo.

Đánh giá về tiềm năng xuất khẩu, ông Cung cho hay, Việt Nam không thể cạnh tranh với Trung Quốc, Thái Lan hay ngay như Nhật Bản – một quốc gia mới gia nhập thị trường xuất khẩu ximăng. Trung Quốc hiện đạt tổng công suất thiết kế 2,5 tỷ tấn và từ năm 2014 họ đã dư thừa tới 700 triệu tấn ximăng.

Riêng con số dư thừa này đã gấp 10 lần tổng công suất thiết kế của Việt Nam. Năm 2015, nước láng giềng này vẫn dư thừa khoảng 600 triệu tấn ximăng, gấp 7,5 lần tổng công suất thiết kế của Việt Nam.

Để giải quyết sản lượng dư thừa này, Trung Quốc đã đẩy mạnh chính sách xuất khẩu giá rẻ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân có tác động mạnh mẽ đến thị phần trên bản đồ xuất khẩu ximăng và khiến thị trường xuất hàng của Việt Nam bị thu hẹp.

Ngoài Trung Quốc, Việt Nam còn phải cạnh tranh với Ấn Độ và Thái Lan. Nhưng hiện sản lượng xuất khẩu ximăng của Việt Nam sụt giảm rõ rệt, năm 2014 là 20 triệu tấn – đứng nhất nhì thế giới nhưng đến năm 2015 chỉ còn 16,2 triệu tấn và năm 2016 là 15 triệu tấn.

Cùng đó, một số nước trong ASEAN hiện đang tiếp tục đầu tư phát triển ximăng. Đơn cử như trước đây Indonesia là nước nhập khẩu nhiều ximăng, clinker của Việt Nam nhưng nay đã vươn lên xuất khẩu mặt hàng này và dự kiến từ năm 2017 sẽ xuất khẩu trên 3 triệu tấn mỗi năm.

Bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất của ximăng đang rơi vào gam màu xám. Theo ông Cung, Hiệp hội đang cùng với doanh nghiệp tìm và áp dụng các giải pháp để giảm tỷ lệ sử dụng tài nguyên khoáng sản trên đầu tấn ximăng để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm giá thành và tăng đóng góp cho ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này vẫn đang trông đợi được “giãn” thời hạn áp dụng các quy định mới có ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu ximăng.

Theo TTXVN/VIETNAM+

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *