Các chuyên gia khuyến cáo, mọi chị em đều nên thực hiện tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ bởi đây là phương pháp dễ thực hiện, cho kết quả chính xác.
Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh phổ biến nhất ở phụ nữ đặc biệt trong độ t.uổi 30 trở lên. Theo Ghi nhận ung thư 2018, Việt Nam có khoảng gần 4.200 ca mắc mới và có hơn 2.400 ca t.ử v.ong vì căn bệnh này. Phần lớn người bệnh đến khám và điều trị khi bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Trong khi đó, sàng lọc, phát hiện sớm ung thư là phương pháp tốt nhất giúp phát hiện những bất thường, dấu hiệu t.iền ung thư, hoặc ung thư giai đoạn sớm, trước khi bệnh gây ra các triệu chứng và cơ hội điều trị thành công cao.
Chị em phụ nữ nên đi khám phụ khoa định kỳ và làm xét nghiệm sàng lọc ung thư cổ tử cung theo chỉ định của bác sĩ, cùng với tiêm phòng vắc xin, đây là cách phòng tránh và phát hiện sớm nhất bệnh ung thư cổ tử cung.
Nhiều chị em băn khoăn, đi sàng lọc ung thư cổ tử cung, ngoài xét nghiệm Pap, bác sĩ hỏi người bệnh có muốn xét nghiệm HPV hay không. Vậy hai xét nghiệm này khác nhau như thế nào?
Xét nghiệm Pap smear: Đây là xét nghiệm đơn giản, khi khám phụ khoa, soi cổ tử cung, bác sĩ sẽ lấy dịch â.m đ.ạo để tiến hành xét nghiệm. Xét nghiệm Pap được thực hiện nhằm tìm kiếm sự thay đổi trong các tế bào cổ tử cung, là một xét nghiệm rất đơn giản để tìm những biến đổi bất thường của tế bào cổ tử cung.
Đây là xét nghiệm quan trọng, giúp bác sĩ phát hiện có bất thường tế bào hay không để tiến hành các xét nghiệm chuyên sâu, khẳng định bệnh.
Xét nghiệm HPV: Là xét nghiệm rất có giá trị trong sàng lọc ung thư cổ tử cung. Bởi virus HPV là thủ phạm chính gây ung thư cổ tử cung (99,7%), lây truyền qua đường t.ình d.ục. Bình thường, HPV có hơn 100 type nhưng 14 type có nguy cơ cao gây ra loại ung thư này. Trong đó, có 2 type nguy cơ cao nhất là type 16 và type 18.
Khi xét nghiệm HPV sẽ cho biết bạn có nhiễm virus này không để bác sĩ đưa ra đ.ánh giá nguy cơ để kiểm soát tốt nhất, phát hiện sớm nhất diễn biến ung thư.
Chị em cần lưu ý, đi thăm khám, làm xét nghiệm này trong lúc không có k.inh n.guyệt. Khoảng 2 ngày trước khi thử Pap không bôi kem hay đặt thuốc vào â.m đ.ạo. Không nên sinh hoạt t.ình d.ục trong vòng 1 -2 ngày trước khi thử Pap.
Đau lưng có thể là triệu chứng của bệnh ung thư nguy hiểm
Theo bác sĩ Trần Kiến Bình, việc xác định nguyên nhân gây đau lưng rất quan trọng khi lựa chọn phương pháp điều trị cho bệnh nhân.
Khoảng 85-90% đau lưng nhưng không có bệnh lý nào được tìm thấy. Các trường hợp còn lại là một triệu chứng trong nhiều bệnh lý như suy giảm chức năng thần kinh, gãy xương, n.hiễm t.rùng hoặc do bệnh tiềm ẩn nghiêm trọng như u ác tính (ít).
Một số loại ung thư có thể gây đau lưng như cột sống, đại trực tràng, phổi, vú, tuyến t.iền liệt… Xu hướng thường là di căn từ vị trí khác đến xương cột sống hơn là do khối u nguyên phát tại chỗ. Dù vậy, đây không phải là triệu chứng đặc hiệu trong những trường hợp này.
Việc xác định nguyên nhân gây đau lưng là từ bệnh lý nào rất quan trọng trong lựa chọn phương pháp điều trị. Ví dụ, bạn phát hiện sớm ung thư cột sống có thể kịp thời ngăn chặn sự di căn lan rộng; xác định gãy cột sống sẽ tránh sử dụng các thuốc chống chỉ định. Hơn nữa, bác sĩ có thể giúp người bệnh thực hiện những xét nghiệm cận lâm sàng xa hơn như đo độ loãng xương để điều trị thêm.
Các triệu chứng kèm đau lưng trong bệnh lý ung thư
Theo ước tính tại Mỹ, khoảng 80% dân số phải đối phó với triệu chứng đau lưng trong suốt cuộc đời của họ. Các nguyên nhân được liệt kê bao gồm bất thường bẩm sinh, chấn thương do mang vác vật nặng, những thay đổi cột sống liên quan t.uổi già (thoái hóa cột sống), các vấn đề về dây thần kinh và tủy sống, tổn thương từ tai nạn giao thông, tai nạn lao động gây ra.
Một số loại ung thư có thể gây đau lưng như cột sống, đại trực tràng, phổi, vú, tuyến t.iền liệt. Ảnh: Oneillchiro.
Đối với nguyên nhân là ung thư, đau lưng thường kết hợp kèm với một số triệu chứng khác liên quan bệnh hoặc trong một số điều kiện nhất định như:
Đau lưng không liên quan hoặc không gia tăng khi vận động. Đau lưng vào ban đêm hoặc sáng sớm và hết, thuyên giảm vào thời gian khác trong ngày. Đau lưng dai dẳng ngay cả sau khi áp dụng các biện pháp vật lý trị liệu hoặc phương pháp điều trị khác. Thay đổi thói quen tiêu tiểu như tiểu hoặc đại tiện có m.áu. Mệt mỏi không đỡ hơn khi nghỉ ngơi Sụt cân trên 10% trọng lượng cơ thể không rõ nguyên nhân. Buồn nôn, nôn ói, chán ăn, khó nuốt. Cảm giác yếu, ngứa ran, châm chích hoặc tê ở tay hoặc chân.
Một người từng có t.iền sử mắc bệnh ung thư, xuất hiện đau lưng kèm theo dấu hiệu khác. Ví dụ, những trường hợp trên, chúng ta có thể nghĩ là bệnh ung thư tiến triển hoặc tái phát. Nếu lo lắng đến tình trạng đau lưng, bạn nên trao đổi trực tiếp với bác sĩ để được tư vấn, làm thêm một số xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán xác định.
Các trường hợp gây đau lưng do ung thư
Ung thư cột sống: Khối u có thể phát triển từ bên trong xương cột sống hay các màng bảo vệ xung quanh tủy sống. Ngoài ra, cột sống cũng là vị trí phổ biến cho sự di căn xương trong trường hợp khối u ác tính ở cơ quan khác. Theo Hiệp hội Phẫu thuật Thần kinh Mỹ (AANS – American Association of Neurological Surgeons), khoảng 30-70% trường hợp bệnh nhân ung thư sẽ di căn đến cột sống.
Ung thư phổi: AANS báo cáo rằng ung thư phổi là một trong những loại phổ biến nhất cho di căn đến xương cột sống. Chúng gây chèn ép dây thần kinh và tạo nên những triệu chứng khó chịu cho người bệnh.
Ung thư vú: Đau lưng là một dấu hiệu hoàn toàn có thể xảy ra trong ung thư vú. Tỷ lệ di căn xương trong loại ung thư này cũng khá phổ biến.
Ung thư đường tiêu hóa: Có thể là từ dạ dày, đại tràng hay trực tràng.
Một số loại ung thư khác như đa u tủy, hạch (Lymphôm), hắc tố ác tính (Mêlanôm), buồng trứng, thận, tuyến giáp và t.iền liệt tuyến.
Theo nghiên cứu của tác giả Filipa và các cộng sự cho thấy tỷ lệ di căn xương trong một số loại ung thư như sau: ung thư vú (65-75%), t.iền liệt tuyến (65-75%), tuyến giáp (60%), phổi (30-40%), bàng quang (40%), biểu mô tế nào thận (20-25%), hắc tố ác tính (14-45%).
Nhiều bệnh ung thư có triệu chứng đau lưng. Ảnh: Sitioandino.
Chẩn đoán đau lưng và ung thư
Bác sĩ sẽ xem xét các triệu chứng, cũng như t.iền sử của bạn để có thể chẩn đoán nguyên nhân gây đau lưng. Ung thư là nguyên nhân không thường gặp gây đau lưng. Do đó, đối với những bệnh nhân chưa từng mắc ung thư, bác sĩ có thể định hướng đến một số nguyên nhân thường gặp hơn. Bệnh nhân cũng có thể được đề nghị một số phương pháp điều trị khác trước khi tiến hành các cận lâm sàng để sàng lọc bệnh ung thư.
Tuy nhiên, nếu cơn đau vẫn còn tồn tại dai dẳng sau các biện pháp vật lý trị liệu hoặc dùng thuốc giảm đau, chống viêm, bác sĩ có thể sẽ cho bạn làm xét nghiệm m.áu, chẩn đoán hình ảnh khác. Qua đó, bác sĩ có thể xác định xem có dấu hiệu của một bệnh lý ung thư tiềm ẩn hay không.
Nếu có các dấu hiệu nghi ngờ, bệnh nhân cần phải sàng lọc bằng chụp X-quang cột sống thắt lưng và xét nghiệm m.áu. Nếu cả hai phương pháp này đều không phát hiện bất thường, bạn nên sử dụng những cận lâm sàng chẩn đoán hình ảnh tiên tiến hơn để khảo sát.
Điều trị đau lưng do ung thư
Tùy thuộc vào loại bệnh cũng như giai đoạn mà có những phác đồ điều trị riêng biệt. Trong trường hợp còn phẫu thuật được, bác sĩ sẽ ưu tiên phương pháp này để loại bỏ khối u. Các phương pháp điều trị khác như xạ trị, hóa trị, chống tiêu xương…có thể áp dụng tùy trường hợp cụ thể. Ngoài ra, bác sĩ có thể kê toa các loại thuốc giảm đau, giãn cơ, kháng viêm hỗ trợ nhằm làm giảm bớt tình trạng trầm trọng của đau lưng.
Các biện pháp điều trị hỗ trợ khác bệnh nhân có thể áp dụng như chườm lạnh bằng túi đá hoặc túi nước nóng lên vùng lưng trong khoảng 10-15 phút; thuốc giảm đau không kê toa (Ibuprofen hoặc Naproxen); tập thể dục nhẹ nhàng có thể giữ cho vùng lưng được khỏe và linh hoạt hơn (đi bộ hoặc các bài tập kéo dãn). Tuy nhiên, trong các trường hợp di căn xương mức độ nặng, tốt nhất bạn nên nghỉ ngơi tại giường và hạn chế vận động.
Tiên lượng của các bệnh nhân ung thư di căn xương thường kém do ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống và sinh hoạt. Thời gian sống được tính từ khi được chẩn đoán di căn xương của một số loại ung thư như sau: hắc tố ác tính (6 tháng), phổi (6-7 tháng), bàng quang (6-9 tháng), biểu mô tế nào thận (12 tháng), t.iền liệt tuyến (12-53 tháng), vú (9-25 tháng), tuyến giáp (48 tháng).
Đau lưng có nhiều nguyên nhân và ung thư chỉ chiếm dưới 1% trong số đó. Nếu bạn có bất kỳ cơn đau ở vùng lưng mà không giải thích được, tốt nhất nên đi khám càng sớm càng tốt, đặc biệt trong trường hợp đã có t.iền căn mắc bệnh ung thư.
Tài liệu tham khảo:
Arianne P. Verhagen, Aron Downie, Nahid Popal et al (2016), Red flags presented in current low back pain guidelines: A review, Springer. Lance M. Mabry, Michael D. Ross and John M. Tonarelli (2014), Metastatic cancer mimicking mechanical low back pain: A case report, J Man Manip Ther, 22 (3), pp. 162-169. Aron Downie, Christopher M. Williams, Nicholas Henschke et al (2013), Red flags to screen for malignancy and fracture in patients with low back pain: Systematic review, BMJ, 347. Low Back Pain Fact Sheet, National Institue of Neurological Disorders and Stroke.Signs and Symptoms of Cancer (2014), American Cancer Society. Filipa Macedo, Katia Ladeira, Filipa Pinho et al (2017), Bone metastases: An overview, Oncology Reviews, 11, pp. 321.Spinal Tumors, American Association of Neurological Surgeons. Spine Tumors and Spinal Cancer, Memorial Sloan Kettering Cancer Center.
Bài viết do bác sĩ Trần Kiến Bình, Bệnh viện Ung Bướu thành phố Cần Thơ, cộng tác viên Ban Khoa học Ruy Băng Tím, cung cấp thông tin.
Ruy Băng Tím là tổ chức phi lợi nhuận về phòng chống ung thư tại Việt Nam, được thành lập vào ngày 12/12/2015 với sự tham gia của các bác sĩ ung bướu, các nhà khoa học nghiên cứu về ung thư trong và ngoài nước.