Thông thường, người bị cúm A sẽ hồi phục sau vài ngày và khỏi bệnh sau một tuần mà không cần điều trị.
Tuy nhiên, một số người có thể gặp biến chứng nguy hiểm đe dọa tính mạng như viêm phổi, suy hô hấp.
Các chủng cúm A và sự nguy hiểm
Cúm A là bệnh n.hiễm t.rùng đường hô hấp cấp tính, thường lưu hành khi thời tiết chuyển mùa, do các chủng virus cúm A phổ biến như A/H1N1, A/H3N2, A/H5N1, A/H7N9 gây nên. Trong đó, chủng A/H7N9 và A/H5N1 là những chủng virus cúm thường lưu hành ở gia cầm, có khả năng lây nhiễm sang người và tạo thành dịch.
Khi virus cúm xâm nhập vào các cơ quan tổ chức, ở phổi sẽ gây phù nề, xung huyết hoại tử tế bào biểu mô đường hô hấp, làm tổn thương mạch m.áu dẫn đến xung huyết, xuất huyết, nếu nhân cơ hội này mà vi khuẩn xâm nhập vào phổi thì tình trạng bội nhiễm phổi trở nên rất nghiêm trọng.
Ở tim, gan, thận, màng não cũng bị tổn thương ở các mức độ khác nhau. Những đối tượng dễ bị biến chứng nhất là t.rẻ e.m dưới 5 t.uổi, người trên 65 t.uổi, người bị suy giảm miễn dịch và phụ nữ mang thai. Có rất nhiều biến chứng có thể xảy ra, trong đó có biến chứng viêm phổi là nguy hiểm nhất
Viêm phổi do vi khuẩn có thể phát triển từ viêm đường hô hấp trên lan xuống đường hô hấp dưới. Người bệnh ho ra đờm vàng hoặc xanh, sốt ngày càng tăng và đau ở ngực khi hít thở sâu, đây là những dấu hiệu cảnh báo viêm phổi. Biến chứng nặng của viêm phổi sau khi nhiễm cúm là viêm phổi hoại tử, suy hô hấp, điều trị không phải dễ dàng. Người bệnh sẽ khó thở, thở gấp, đờm có lẫn m.áu… thiếu oxy và thậm chí là t.ử v.ong.
Đặc biệt đối với t.rẻ e.m sẽ có một số biến chứng có thể xảy ra khi trẻ mắc cúm A gồm: Suy hô hấp, viêm tai giữa, viêm phổi, viêm thanh khí phế quản, viêm màng não, viêm cơ tim, nhiễm khuẩn thứ phát… Những biến chứng do cúm A gây ra nếu không được phát hiện và can thiệp kịp thời có thể ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tính mạng và sự phát triển sau này của trẻ.
Theo CDC Hoa Kỳ, cúm và viêm phổi cộng lại là nguyên nhân gây t.ử v.ong đứng hàng thứ 9 ở Mỹ, g.iết c.hết hàng chục nghìn người mỗi năm.
Virus cúm A có thể lây truyền trực tiếp trong không khí thông qua đường hô hấp.
Nguyên nhân lây cúm A
Virus cúm A có thể lây truyền trực tiếp trong không khí thông qua đường hô hấp. Khi người bệnh ho, hắt hơi hoặc nói chuyện, các giọt b.ắn kèm theo virus thoát ra ngoài có thể tiếp cận người khác và lây truyền bệnh bằng việc hít phải hoặc chạm phải đồ vật có virus.
Ngoài ra, một người có thể bị nhiễm cúm A khi:
– Sử dụng chung vật dụng sinh hoạt với người bị nhiễm bệnh (bát, đũa, cốc, chén, khăn, quần áo…) hoặc vô tình tiếp xúc với các đồ dùng trong nhà (nắm cửa, bàn, ghế…) sau đó đưa lên mũi, miệng.
– Tiếp xúc với các động vật có nhiễm cúm như lợn, ngựa, gia cầm… cũng có thể lây bệnh.
– Tập trung nơi đông người như trường học, công viên, nơi công sở… cũng là điều kiện để virus lây lan nhanh chóng.
Biểu hiện của cúm A
Triệu chứng cúm A thường xuất hiện đột ngột và dễ nhận biết như ho, chảy nước mũi, nghẹt mũi, đau đầu, sốt, mệt mỏi, hắt hơi, đau họng, đau nhức cơ thể. Đôi khi các triệu chứng này tự hết mà không cần điều trị đặc biệt.
Người bệnh cúm A diễn biến nặng có thể gây n.hiễm t.rùng tai, tiêu chảy, buồn nôn, nôn, ho khan, sốt cao gây co giật, tức ngực, viêm phổi và gây nặng lên các vấn đề về tim mạch.
Bệnh cúm A ở người có triệu chứng từ nhẹ đến nặng, khác nhau tùy theo tình trạng sức khỏe của từng người. Các triệu chứng khi nhiễm virus cúm A có một số điểm tương đồng với khi nhiễm chủng virus cúm thường. Nếu không được điều trị đúng cách, một số đối tượng như người già, t.rẻ e.m, người có hệ miễn dịch suy yếu sẽ dễ dàng mắc thêm các bệnh khác hoặc gặp các biến chứng nặng dẫn đến nguy cơ đe dọa tính mạng.
Có rất nhiều biến chứng có thể xảy ra khi bị cúm A, trong đó viêm phổi là nguy hiểm nhất.
Biểu hiện cúm khi trở nặng
Người bệnh bứt rứt, khó chịu, hoặc lừ đừ, ngủ lịm, gọi không trả lời, nặng nhất là co giật, bất tỉnh.
Người bệnh thở nhanh, rút lõm phần dưới lồng ngực khi hít vào, thở rít khi nằm yên, môi nhợt nhạt, tím tái.
Chân tay lạnh, môi khô, da nổi bông, mạch không bắt được ở cổ tay, nếu có đo huyết áp thì ghi nhận huyết áp tụt hoặc bằng không.
Chỉ cần ghi nhận có một trong những triệu chứng kể trên, thì ngay lập tức đưa trẻ vào bệnh viện gần nhà nhất để cấp cứu kịp thời.
Để phòng cúm thì cần vệ sinh cá nhân cẩn thận: Thường xuyên rửa tay bằng dung dịch cồn hoặc xà phòng tiệt trùng sau khi cầm nắm đồ vật hoặc đến nơi công cộng, hạn chế tiếp xúc người nghi mắc cúm, tránh tập trung nơi đông người trong mùa dịch.
Vệ sinh nơi ở, nơi làm việc với dung dịch sát khuẩn, mở cửa sổ thông thoáng.
Tăng cường sức đề kháng bằng việc tập luyện thể dục, chế độ ăn uống, sinh hoạt lành mạnh.
Tiêm vaccine cúm đầy đủ, đúng lịch, nhất là các đối tượng có nguy cơ nhiễm cúm cao cần được tiêm phòng trước mùa dịch.
Nhiễm virus hợp bào đường hô hấp, em bé 2 tháng t.uổi phải thở máy
Chiều 26/1, thông tin từ Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết, Khoa Nhi của bệnh viện đã tiếp nhận em bé 2 tháng t.uổi đến từ tỉnh Thanh Hóa.
Khi vào viện, bệnh nhân được chẩn đoán viêm phổi nặng sau nhiễm virus hợp bào đường hô hấp (RSV), suy hô hấp mức độ nặng phải thở máy. Bệnh nhân là trẻ sinh non (35 tuần).
Trước khi vào khoa Nhi, bệnh nhân điều trị viêm phổi tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa 11 ngày đã ổn định và được ra viện. Tuy nhiên sau 2 ngày xuất viện bệnh nhân xuất hiện ho khò khè, đi khám và làm các xét nghiệm cho thấy bệnh nhân bị nhiễm virus RSV được chuyển đến khoa Nhi, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.
Theo TS Đặng Thị Thúy – Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết, em bé mặc dù đến sớm nhưng với cơ địa là đẻ non công thêm viêm đường hô hấp tái phát do n.hiễm t.rùng trước đó thì bệnh tiến triển nhanh và nặng hơn. Hiện nay em bé phải thở máy.
Bệnh nhân bị nhiễm virus RSV được chuyển đến khoa Nhi, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.
Tại Việt Nam, bệnh do RSV bùng phát mạnh vào mùa đông xuân và khi thời tiết chuyển từ mùa xuân sang hè. N.hiễm t.rùng RSV có thể gây ra các hội chứng lâm sàng đa dạng, từ triệu chứng nhẹ giống cảm lạnh đến các biểu hiện của n.hiễm t.rùng đường hô hấp trên, viêm tiểu phế quản, viêm phổi, cơn hen kịch phát và thở khò khè do virus. Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, RSV có thể gây ra viêm tiểu phế quản nặng và có thể dẫn tới t.ử v.ong.
Cũng giống như nhiều virus gây bệnh đường hô hấp khác, RSV có thể lây truyền từ người bệnh sang người lành thông qua:
Nhiễm bẩn bởi các giọt b.ắn có chứa virus RSV được thải ra từ người bệnh qua ho, hắt hơi lên mắt, mũi, miệng.
Tiếp xúc gián tiếp với các bề mặt bị nhiễm bẩn có chứa virus hoặc quần áo, vật dụng của người bị bệnh, bàn tay người bệnh sau đó đưa lên mắt, mũi, miệng.
Khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết của người nhiễm RSV thông qua thơm hôn hoặc mớm thức ăn…
TS Đặng Thị Thúy lưu ý: Đối tượng nhiễm RSV có nguy cơ bệnh tiến triển nặng bao gồm: Trẻ sinh non; trẻ sơ sinh (dưới 6 tháng t.uổi); trẻ nhỏ dưới 2 t.uổi mắc bệnh tim hoặc phổi bẩm sinh; t.rẻ e.m bị suy giảm hệ miễn dịch.
Người cao t.uổi, đặc biệt là người từ 65 t.uổi trở lên; người bị hen suyễn, suy tim sung huyết, mắc bệnh lý hô hấp mạn tính, đặc biệt là bệnh viêm phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD); người bị suy giảm miễn dịch, người ghép tạng, ung thư m.áu hoặc HIV/AIDS.
Vì vậy, người dân, người chăm sóc trẻ cần thực hiện các biện pháp sau để hạn chế lây nhiễm RSV:
Hướng dẫn trẻ rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước sạch trong ít nhất 20 giây, hoặc sử dụng nước sát khuẩn tay nhanh. Cha mẹ, người lớn cần rửa tay trước khi chế biến thực phẩm và cho trẻ ăn, trước và sau khi chăm sóc trẻ bị ốm khác…
Tránh chạm vào mắt, mũi và miệng bằng tay chưa rửa sạch.
Tránh tiếp xúc gần với người bệnh hoặc dùng chung cốc hoặc dụng cụ ăn uống với những người có các triệu chứng giống như cảm lạnh.
Che miệng và mũi khi ho và hắt hơi.
Làm sạch và khử trùng các bề mặt và đồ vật mà mọi người thường xuyên chạm vào như đồ chơi, tay nắm cửa và thiết bị di động…
Khi trẻ bị bệnh nên cách ly và chăm sóc trẻ tại nhà để tránh lây nhiễm cho công cộng.
Theo TS Đặng Thị Thúy, khi các bậc phụ huynh thấy con em mình có biểu hiện viêm nhiễm đường hô hấp cần đưa ngay để cơ sở y tế để được bác sĩ tư vấn và điều trị kịp thời.