Ung thư t.iền liệt tuyến là bệnh lý ác tính thường gặp ở nam giới cao t.uổi. Chỉ số PSA được đ.ánh giá là bước đột phá trong việc phát hiện và điều trị ung thư t.iền liệt tuyến.
Theo số liệu của cơ quan thế giới nghiên cứu ung thư IARC, ung thư t.iền liệt tuyến là loại ung thư đứng thứ tư toàn cầu tính chung cả hai giới (sau ung thư phổi, vú, đại – trực tràng).
Tuy nhiên, bệnh lý này khó phát hiện sớm ở giai đoạn đầu. Với xét nghiệm PSA và kỹ thuật sinh thiết tuyến t.iền liệt, ngày càng có nhiều trường hợp ung thư tuyến t.iền liệt, ngày càng có nhiều bệnh nhân được tầm soát và chẩn đoán sớm.
Những thông tin cơ bản về chỉ số PSA
PSA là một kháng nguyên đặc hiệu của tuyến t.iền liệt, được tiết ra từ các tế bào biểu mô của tuyến t.iền liệt.
Phần lớn PSA trong m.áu đều gắn với các protein huyết tương. Chỉ có khoảng 30% PSA tự do không gắn với các protein. Các PSA tự do này không có khả năng p.hân h.ủy protein. Đây chính là lý do chỉ số PSA được coi là dấu ấn của ung thư t.iền liệt tuyến.
Tỷ lệ chỉ số PSA tự do/PSA toàn phần được dùng để chẩn đoán ung thư t.iền liệt tuyến nếu nồng độ PSA tự do nằm trong khoảng 4 – 10 ng/ml. Nếu tỷ lệ PSA tự do/PSA toàn phần dưới 15%, nguy cơ bị ung thư t.iền liệt tuyến là rất cao.
Khi nào nên thực hiện xét nghiệm PSA?
Thực tế, không phải ai cũng được thực hiện xét nghiệm PSA. Phương pháp này chỉ được áp dụng trong một số trường hợp đặc biệt. Cụ thể như:
– Khi muốn sàng lọc ung thư t.iền liệt tuyến. Nam giới từ 50 trở lên nên thực hiện xét nghiệm PSA hàng năm để sàng lọc và phát hiện bệnh sớm.
– Những người có t.iền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến t.iền liệt cũng nên tiến hành sàng lọc ung thư t.iền liệt tuyến từ năm 40 t.uổi trở đi.
– Xét nghiệm PSA được dùng để theo dõi hiệu quả của quá trình điều trị ung thư t.iền liệt tuyến cũng như nguy cơ tái phát bệnh. Tùy theo từng mức độ bệnh cụ thể, xét nghiệm PSA cần được theo dõi sau khi điều trị ung thư t.iền liệt tuyến từ 6 đến 36 tháng.
Chỉ số PSA và những cảnh báo nguy cơ ung thư t.iền liệt tuyến
Đối với người bình thường, chỉ số PSA toàn phần trong m.áu sẽ rất thấp (dưới 4 ng/mL). Tuy nhiên, càng lớn t.uổi kích thước của tuyến t.iền liệt sẽ càng tăng cao.
Chỉ số PSA là dấu ấn của ung thư t.iền liệt tuyến. Cụ thể như sau:
– Khi nồng độ PSA trong m.áu tăng cao, nam giới có nguy cơ mắc ung thư t.iền liệt tuyến. Giá trị giới hạn để chẩn đoán ung thư tuyến t.iền liệt của chỉ số PSA toàn phần trong huyết tương 4ng/ml, độ đặc hiệu khoảng 91% và độ nhạy khoảng 21%.
– Khi mắc ung thư t.iền liệt tuyến tốc độ tăng PSA toàn phần trong m.áu sẽ tăng nhanh hơn bình thường. Những người có tốc độ tăng PSA toàn phần từ 0.75 ng/mL/năm trở lên sẽ có nguy cơ mắc ung thư t.iền liệt tuyến cao hơn.
– Những người có tốc độ tăng PSA
Tuy nhiên, không phải cứ có nồng độ PSA trong m.áu tăng cao đồng nghĩa với việc bị mắc ung thư t.iền liệt tuyến. Một số tình trạng bệnh lý khác cũng có thể dẫn đến tăng nồng độ PSA trong m.áu như: viêm tuyến t.iền liệt, Phì đại tuyến t.iền liệt lành tính , bí đái phải đặt sonde niệu đạo…
Do đó, để chẩn đoán chính xác hơn ung thư t.iền liệt tuyến, người bệnh cần định lượng chỉ số PSA tự do và tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần.
Thực tế, việc xác định tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần giúp chẩn đoán và phân biệt hiệu quả những trường hợp bị ung thư t.iền liệt tuyến.
Việc xác định tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần giúp chẩn đoán và phân biệt hiệu quả những trường hợp bị ung thư t.iền liệt tuyến
Nếu nồng độ PSA toàn phần huyết tương tăng từ 4 lên 10 ng/mL, tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần 0,15 sẽ giúp chẩn đoán ung thư t.iền liệt tuyến với độ đặc hiệu khoảng 56,5% và độ nhạy 85%.
Đặc biệt, có khoảng 23% bệnh nhân mắc ung thư t.iền liệt tuyến có tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần dao động từ 0,15-0,19. Khoảng 9% bệnh nhân bị ung thư t.iền liệt tuyến có tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần 0,20.
Để bảo vệ sức khỏe, nam giới đặc biệt là những người có độ t.uổi từ 50 trở lên cần thăm khám và thực hiện những xét nghiệm cần thiết để phát hiện và điều trị ung thư t.iền liệt tuyến hiệu quả.
Gia đình 3 người lần lượt mắc ung thư gan, bác sĩ tức giận “tố cáo” 2 loại thực phẩm trong tủ lạnh chính là thủ phạm
Sau khi nổi những nốt mẩn đỏ nhỏ ở mu bàn tay và cổ, bôi thuốc mà không đỡ, gia đình anh Tôn đến bệnh viện khám thì phát hiện cả 3 người trong nhà đều mắc bệnh ung thư gan.
Anh Tôn năm nay 48 t.uổi (Trung Quốc) là nhân viên của một công ty trang trí, lương tháng cũng không tồi, cuộc sống của một gia đình 3 người nhà anh cũng được gọi là đủ đầy, hạnh phúc. Thế nhưng vào đầu tháng 6 vừa qua, vận rủi bỗng ập đến, tất cả các thành viên trong gia đình anh được chẩn đoán mắc bệnh ung thư gan.
Trước đó, giữa tháng 5, 2 vợ chồng anh Tôn và đứa con đang học cấp 2 đều bị nổi những nốt mẩn đỏ nhỏ ở mu bàn tay và cổ, dù đã thoa bột phát ban một tuần nhưng tình trạng này không thuyên giảm. Thậm chí, họ còn phát hiện các nốt mẩn đỏ có cảm giác như bị gai đ.âm vào, rất đau nhức.
Do đó, cả gia đình 3 người quyết định đến bệnh viện kiểm tra, xét nghiệm nhiều lần thì phát hiện bị ung thư gan. Tìm hiểu thói quen sinh hoạt hàng ngày, bác sĩ mới biết được nguyên nhân, hóa ra gia đình anh Tôn có vấn đề lớn về thói quen ăn uống, một số loại thực phẩm thường được cất trữ trong tủ lạnh, chúng chứa rất nhiều chất gây ung thư.
1. Nấm ngâm lâu
Các loại nấm (bao gồm cả mộc nhĩ) có giá trị dinh dưỡng rất cao, được mọi người vô cùng yêu thích, tuy nhiên chúng thường được bảo quản ở dạng khô, muốn chế biến và sử dụng thì phải ngâm nước trước. Một số người cho rằng việc thi thoảng lại ngâm một ít nấm rất mất thời gian, do đó, họ thường ngâm nhiều một chút rồi cất vào tủ lạnh dùng dần và nhà anh Tôn cũng làm điều tương tự.
Bạn cần nhớ rằng tuyệt đối không nên ngâm nấm trong nước quá lâu hoặc bảo quản nấm đã ngâm nước trong thời gian dài. Điều này là bởi nếu ngâm nấm trong nước lâu, nấm đặc biệt dễ sinh ra độc tố axit mycolic, sau khi chất độc này được ăn vào cơ thể người sẽ gây ngộ độc gan, lâu dần gây bệnh ung thư gan.
2. Rau để qua đêm
Rau là thực phẩm tương đối phổ biến, rất giàu vitamin và chất xơ, tuy nhiên không nên để rau qua đêm.
Sau khi rau bị oxy hóa (do quá trình nấu nướng với nhiệt độ nhất định) để qua đêm trong tủ lạnh sẽ sinh ra và làm tăng hàm lượng một chất có hại là nitrit (được chuyển hóa từ nitrat có sẵn trong rau). Dù lượng nitrit này không đáng kể nhưng nếu bạn thường xuyên ăn rau để qua đêm, nó sẽ tích tụ dần theo thời gian và gây hại cho sức khỏe.
Bản thân chất này không độc hại nhưng khi vào cơ thể con người, nó sẽ kết hợp với protein tạo nên nitrosamine – chất gây ung thư mạnh, sẽ khiến gan bị nhiễm độc trong quá trình chuyển hóa và tăng khả năng bị ung thư gan.
Nguồn và ảnh: Sohu, The Healthy