Số lượng cơn thèm ăn của cô gái trẻ ngày càng tăng, cô tìm mọi cách để ăn nhiều nhưng ăn xong lại tự gây nôn và dùng thuốc nhuận tràng.
Tại bệnh viện, n.ữ s.inh viên được chẩn đoán bị chứng ăn vô độ tâm thần
Chiều 20-5, bác sĩ Nguyễn Kim Anh, Phòng rối loạn cảm xúc và ăn uống, Viện Sức khỏe Tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai), cho biết tại đây vừa tiếp nhận khám, điều trị nữ bệnh nhân 20 t.uổi, bị rối loạn ăn vô độ sau khi thất tình.
Bác sĩ tư vấn cho bệnh nhân về tình trạng sức khỏe tâm thần của người bệnh
Bệnh nhân hiện là sinh viên đại học năm thứ 2, gia đình khá giả, hòa thuận, không có t.iền sử bệnh lý gì về thể chất, tinh thần, tuy nhiên tính cách dễ xúc động, trầm tính.
Rối loạn ăn vô độ
Qua khai thác bệnh sử, bệnh nhân cho biết cách đây 2 năm, khi học cuối lớp 12, bệnh nhân có tình cảm với một bạn trai trong lớp, tuy nhiên bị từ chối với lý do bệnh nhân… béo. Mặc dù lúc đó bệnh nhân cao 1 m 57, nặng 54 kg, cơ thể khá cân đối.
Từ đó, bệnh nhân bắt đầu không hài lòng về cơ thể của mình, giảm cân bằng mọi cách như mua thuốc giảm cân trên mạng, mỗi ngày chỉ ăn 1 bữa, thậm chí bữa đó cũng chỉ là salad. Sau 6-7 tháng, bệnh nhân chỉ còn hơn 42 cân.
Nhưng lúc này, bệnh nhân lại thấy mình xấu vì quá gầy, quần áo rộng thùng thình, mặt hốc hác, cơ bắp nhão. Do đó, bệnh nhân lại tìm cách nạp calo một cách khẩn cấp bằng các bữa ăn nhiều calo. Tuy nhiên, ngay sao khi bệnh nhân ăn xong lại hối hận, tìm cách gây nôn hoặc uống thuốc nhuận tràng để thải đồ ăn vừa nạp vào.
“Những cơn thèm ăn của bệnh nhân tăng lên, mỗi tuần 3-4 lần, thậm chí cả vào nửa đêm. Việc ăn uống thất thường, mất ngủ khiến bệnh nhân mệt mỏi, không muốn đi học. Bệnh nhân cứ ăn vô độ rồi lại hối hận, hối hận xong lại thèm ăn. Sau 8 tháng những cơn ăn uống vô độ ngày càng nhiều khiến bệnh nhân cảm thấy chán nản, xấu hổ, bi quan, ít tiếp xúc với mọi người, dễ cáu gắt, kết quả học tập kém…”- bác sĩ Kim Anh chia sẻ.
Vào Viện Sức khỏe tâm thần, bệnh nhân được chẩn đoán mắc chứng ăn vô độ tâm thần, được điều trị bằng thuốc, kết hợp liệu pháp nhận thức – hành vi.
Sau 1 tháng, bệnh nhân giảm các cơn ăn uống hơn, còn khoảng 1 cơn/ tuần, được ra viện. Sau 2 tháng, bệnh nhân cơ bản không còn cơn ăn nhiều, không còn buồn chán, tự tin, vui vẻ hơn.
Ăn vô độ tâm thần có biểu hiện thế nào?
Chia sẻ thêm về chứng ăn vô độ tâm thần, bác sĩ Vũ Sơn Tùng, Phó trưởng Phòng điều trị rối loạn cảm xúc, Viện Sức khỏe Tâm thần, cho biết ăn vô độ tâm thần đặc trưng bởi các giai đoạn ăn vô độ tái diễn, sự bận tâm quá mức đến cân nặng nên nhịn ăn sau đó lại “lên cơn” thèm ăn” rồi lại hối hận nên tìm cách “thải” đồ ăn mình vừa nạp vào bằng mọi cách tiêu cực như móc họng gây nôn, dùng thuốc xổ sau ăn để đào thải…
Bệnh nhân thường khởi phát ở t.uổi vị thành niên và thanh niên, hiếm gặp ở trẻ trước t.uổi dậy thì hoặc người trên 40 t.uổi. Đặc biệt, bệnh chủ yếu gặp ở nữ giới, với tỉ lệ nữ/nam là 3/1. Tỉ lệ mắc bệnh cao nhất là ở phụ nữ 20-29 t.uổi.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh. Ăn vô độ tâm thần có yếu tố di truyền, những người trong gia đình có thành viên mắc chứng rối loạn ăn uống có nguy cơ mắc 28-74%. Bên cạnh đó, một nguyên nhân quan trọng là tâm lý – xã hội, nhất là ở các bạn trẻ t.uổi dậy thì.
Theo bác sĩ Vũ Sơn Tùng, ăn vô độ tâm thần đặc trưng bởi các giai đoạn ăn vô độ tái diễn
“Trẻ hay bị sang chấn tâm lý khi bị bạn bè miệt thị về cân nặng, bị chê “béo thế, mập thế”, thậm chí bị bắt nạt. Lúc này, bệnh nhân thường bị áp lực quá lớn về vấn đề hình thể. Đây là một trong các nguyên nhân quan trọng thúc đẩy thanh thiếu niên, đặc biệt là nữ giới, mắc chứng rối loạn ăn vô độ tâm thần”- bác sĩ Tùng nói.
Để đ.ánh giá chính xác bệnh, bác sĩ sẽ căn cứ vào những hành vi lặp đi lặp lại của việc ăn uống vô độ và sợ không thể ngừng ăn. Người bệnh tự gây nôn, cổ họng luôn bị viêm hoặc đau; có vấn đề về răng do xói mòn men răng do nôn mửa; tập thể dục quá mức; k.inh n.guyệt không đều hoặc hoàn toàn không có kinh; lạm dụng thuốc nhuận tràng hoặc thuốc lợi tiểu, gây rối loạn tiêu hóa.
Ngoài ra, theo bác sĩ Tùng, dấu hiệu nhận biết về cảm xúc liên quan đến ăn vô độ gồm: Cảm giác chán nản về bản thân và vẻ ngoài của cơ thể, bận tâm quá mức về cơ thể; mệt mỏi và ít năng lượng; thiếu tự tin về bản thân, đặc biệt là ngoại hình; cảm giác bất lực thậm chí bất mãn với hình dáng và kích thước cơ thể; cảm giác căm ghét bản thân sau khi ăn…
Các bác sĩ cũng lưu ý người bị bệnh ăn vô độ tâm thần thường kèm thêm các rối loạn khác như rối loạn trầm cảm, lo âu, tâm thần do sử dụng chất, chiếm tỉ lệ khoảng 30-50%.
Phụ nữ trầm cảm sau sinh cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời
Dù chưa có số liệu thống kê cụ thể nhưng ngày càng có nhiều phụ nữ bị trầm cảm sau sinh.
Nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, người bệnh sẽ bị loạn thần, hoang tưởng dễ dẫn đến những hành vi bột phát có thể gây hại bản thân hoặc những người xung quanh. Tuy nhiên vì nhiều lý do, hiện nay việc phát hiện, điều trị bệnh này trên địa bàn tỉnh vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Bác sĩ Khoa Tâm thần kinh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh tư vấn cho bệnh nhân -Ảnh: M.L
Chị N.T.H. ở huyện Gio Linh sau một thời gian điều trị bệnh trầm cảm nội trú tại bệnh viện thì được chuyển sang điều trị ngoại trú. Gần một năm nay, đều đặn hằng tháng, chị H. đến Khoa Tâm thần kinh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh khám và lấy thuốc theo đơn bác sĩ về uống. Theo lời kể của chị H., nguyên nhân xuất phát từ việc chị sinh con nhưng ít sữa.
Vì thế, suốt ngày chị cứ day dứt không yên vì lo con đói nhưng lại không dám cho con bú sữa ngoài vì sợ không bảo đảm. Hằng đêm nhìn con quấy khóc chị cứ trượt dài với những cảm xúc tiêu cực. “Hơn một tháng trời tôi mất ngủ, sức khỏe sa sút, tâm trạng chán nản.
Sau đó tôi xuất hiện cảm giác đơn độc, có lỗi khi làm mẹ mà không đủ sữa cho con bú, không đủ sức chăm con. Vì thế tôi muốn tìm đến cái c.hết… Rất may là người thân đã phát hiện kịp thời đưa tôi đi viện điều trị bệnh”, chị H. nhớ lại.
Theo bác sĩ Nguyễn Truyền, Phó Trưởng khoa phụ trách Khoa Tâm thần kinh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh, người mắc bệnh trầm cảm đều có cơ địa thần kinh yếu nên những người t.iền sử có vấn đề về tâm lý, người có yếu tố di truyền gia đình với chứng trầm cảm, lo âu hay người ở lần sinh đầu bị trầm cảm thì lần sinh sau dễ tái phát bệnh.
Đặc biệt, phụ nữ sau khi sinh đẻ thường thay đổi về thói quen sinh hoạt, tâm sinh lý, nồng độ hormone, chế độ dinh dưỡng, nghỉ ngơi… nên nguy cơ mắc bệnh này càng cao. Trung bình mỗi tháng tại khoa có khoảng 400 lượt bệnh nhân đến khám, điều trị rối loạn tâm thần, trong đó bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm chiếm khoảng 15% – 20%.
Điều đáng lo ngại là hiện nay đa phần bệnh nhân mắc bệnh đến cơ sở y tế điều trị đều ở giai đoạn nặng, gia đình phải “áp tải” đến bệnh viện. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như nhận thức về các loại bệnh tâm lý, tâm thần của người dân còn hạn chế, chưa được quan tâm.
Hiện trên địa bàn tỉnh, điều kiện về cơ sở y tế, trang thiết bị cũng như nguồn nhân lực phục vụ khám, điều trị các loại bệnh tâm thần đều thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân cũng như sàng lọc, phát hiện bệnh sớm trong cộng đồng.
“Tôi công tác ở khoa 35 năm nhưng trong vòng 5 năm trở lại đây khoa mới tuyển mới được 3 bác sĩ đa khoa về làm việc và đào tạo dần về chuyên khoa tâm thần học. Hiện khoa chỉ có 30 giường bệnh điều trị nội trú. Do năng lực khám, chữa bệnh tâm thần kinh trên địa bàn còn hạn chế nên nhiều bệnh nhân mắc các nhóm bệnh điều trị tại khoa, trong đó có bệnh nhân trầm cảm phải đi điều trị ở các cơ sở y tế ngoại tỉnh”, bác sĩ Truyền cho biết.
Sau khi sinh con thứ 2 được 1 tuần thì chị L.T.O. ở huyện Hải Lăng bắt đầu buồn bã, hay cáu gắt, mất ngủ, mệt mỏi nên người thân trong gia đình đã đưa chị vào Khoa Tâm thần, Bệnh viện Trung ương Huế – nơi chị từng điều trị trước đây để khám.
Chị gái của O. cho biết, cách đây 4 năm, O. sinh con đầu lòng thì bị mất ngủ triền miên, người lúc nào cũng bồn chồn, lo lắng. Thời điểm đó gia đình chỉ nghĩ đơn giản là do sau sinh, cơ thể O. mệt mỏi, căng thẳng nên mọi người cố gắng bồi dưỡng, động viên. Tuy nhiên, càng ngày O. càng có những biểu hiện bất thường như không muốn nói chuyện với những người xung quanh, không muốn cho con bú. Có khi cả đêm O. chỉ ngồi nhìn con chằm chằm mà không ngủ hoặc có những cơn nóng giận không kiểm soát được là la hét…
“Đi khám thì mới biết O. mắc bệnh trầm cảm sau sinh, phải nhập viện điều trị hàng tháng trời. May mắn là sau một thời gian điều trị O. trở lại cuộc sống bình thường.
Tuy nhiên, nay sinh con thứ 2 thì căn bệnh này lại quay trở lại và có dấu hiệu nặng hơn. Thế là cả 2 lần sinh con vừa tròn tháng, em gái tôi đều phải cai sữa cho con để nhập viện điều trị bệnh trầm cảm”, chị gái O. chia sẻ.
Tại tỉnh Quảng Trị, năm 2022 dư luận cũng từng rúng động khi một phụ nữ người dân tộc thiểu số s.át h.ại con mình trong cơn bột phát vì mắc bệnh trầm cảm sau sinh. Phải đến sau khi vụ án xảy ra, người mẹ được đưa đi điều trị ở cơ sở y tế thì người thân trong gia đình cũng nhà người dân địa phương mới biết đến căn bệnh này.
Vì thế, rất cần nâng cao hiểu biết về bệnh trầm cảm sau sinh cho người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, để mọi người hiểu rằng, đây là một trong những loại bệnh tâm thần, cần phải điều trị.
Khi có dấu hiệu trầm cảm cần được khám sớm tại chuyên khoa tâm thần, tránh để tình trạng bệnh quá nặng gây khó khăn trong điều trị. Theo bác sĩ Truyền, 80% phụ nữ bị trầm cảm sau sinh sẽ hồi phục hoàn toàn nếu được quan tâm đúng mức. Hiện nay, việc điều trị trầm cảm sau sinh có thể sử dụng liệu pháp tâm lý, điều trị bằng thuốc chống trầm cảm, giải tỏa lo âu.
Bên cạnh đó, sự đồng hành của gia đình với phụ nữ sau sinh rất quan trọng để hỗ trợ kịp thời về mặt tâm lý. Những người thân trong gia đình nên dành thời gian quan tâm chăm sóc phụ nữ sau sinh, đặc biệt là người chồng cần lắng nghe, cảm thông, chia sẻ việc chăm con nhỏ và tạo điều kiện cho người vợ có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi cũng như có chế độ dinh dưỡng hợp lý.