Các dấu hiệu của cơn đau tim thường có thể bị nhầm lẫn với các bệnh lý khác. Có 3 dấu hiệu đột ngột cảnh báo một người có thể bị đau tim, đó là gì?
Một trong những dấu hiệu là đau lan sang cánh tay trái hoặc phải, hoặc cổ, hàm, lưng hoặc bụng – SHUTTERSTOCK
Cơn đau tim xảy ra khi một động mạch đến tim bị tắc nghẽn hoàn toàn và dòng m.áu đến một phần của tim bị ngừng lại. Điều này gây ra tình trạng thiếu oxy đến tim và một phần cơ tim bắt đầu c.hết.
Nếu một mảnh chất béo bị vỡ ra, sẽ hình thành cục m.áu đông trên thành động mạch. Cục m.áu đông này làm tắc nghẽn động mạch vành dẫn đến các cơ tim bị thiếu oxy và m.áu và do đó gây ra nhồi m.áu cơ tim, theo Express .
Cảm thấy không khỏe, đổ mồ hôi, choáng váng hoặc khó thở – ẢNH SHUTTERSTOCK
Mặc dù các triệu chứng đau tim khác nhau ở mỗi người, nhưng theo Tổ chức Tim mạch Anh – British Heart Foundation, sau đây là 3 dấu hiệu phổ biến nhất của cơn đau tim:
1. Đau hoặc khó chịu ở ngực đột ngột xuất hiện và không dứt
2. Đau lan sang cánh tay trái hoặc phải, hoặc cổ, hàm, lưng hoặc bụng.
Đối với một số người, cơn đau tức rất nghiêm trọng, trong khi những người khác chỉ cảm thấy khó chịu.
3. Cảm thấy không khỏe, đổ mồ hôi, choáng váng hoặc khó thở
Cũng có người bị đau tim mà không gặp phải các triệu chứng nêu trên hoặc không bị đau ngực, đặc biệt là người già, phụ nữ hoặc những người mắc bệnh tiểu đường vì căn bệnh này có thể gây tổn thương dây thần kinh và ảnh hưởng đến cảm giác đau, Tổ chức Tim mạch Anh giải thích.
Hầu hết các cơn đau tim liên quan đến cảm giác khó chịu ở trung tâm ngực kéo dài hơn vài phút, hoặc nó có thể hết rồi đau lại, theo Express .
Có thể cảm thấy tức ngực, đau hoặc cảm giác bị bóp nghẹt
Các dấu hiệu và triệu chứng đau tim phổ biến khác bao gồm tức ngực, đau hoặc cảm giác bị bóp nghẹt hoặc đau ở ngực hoặc cánh tay có thể lan đến cổ, hàm hoặc lưng. Cũng có thể buồn nôn, khó tiêu, ợ chua hoặc đau bụng. Nếu nghi ngờ một người bị đau tim, thì điều đầu tiên cần làm là gọi cấp cứu càng sớm càng tốt, theo Express .
Đừng lo lắng nếu không hoàn toàn chắc chắn liệu các triệu chứng đó có phải là cơn đau tim hay không, điều quan trọng là phải tìm kiếm sự chăm sóc y tế dù bất kể thế nào. Nếu bị cơn đau tim, phải ngồi xuống, giữ bình tĩnh và chờ cấp cứu.
Theo Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh, việc điều trị cơn đau tim tùy thuộc vào cơn đau tim là nhồi m.áu cơ tim cấp – gây hoại tử cơ tim, hay là loại đau tim khác.
Nhồi m.áu cơ tim cấp – gây hoại tử cơ tim là dạng đau tim nghiêm trọng nhất và cần được đ.ánh giá và điều trị khẩn cấp. Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh cảnh báo cần phải nhanh chóng điều trị để giảm thiểu tổn thương cho tim.
Có những bước mọi người có thể thực hiện để ngăn chặn mối đe dọa của cơn đau tim. Ví dụ, hút thuốc là một yếu tố nguy cơ lớn. Theo Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh tim mạch vành cao hơn nhiều so với người không hút thuốc.
Theo lời khuyên của Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh, có một số cách khác để giữ gìn sức khỏe tim mạch, bao gồm: Bỏ t.huốc l.á; Vận động – thực hiện 150 phút hoạt động aerobic cường độ vừa phải mỗi tuần; Quản lý cân nặng; Ăn nhiều chất xơ hơn – đặt mục tiêu ít nhất 30 g mỗi ngày; Cắt giảm chất béo bão hòa; Ăn 5 lần trái cây và rau mỗi ngày; Cắt giảm muối; Ăn cá; Uống ít rượu, theo Express.
Nếu có nhóm m.áu này, bạn sẽ dễ bị đông m.áu hơn
Gần đây, người ta chú ý nhiều đến cục m.áu đông, do các biến chứng đông m.áu hiếm gặp liên quan đến vắc xin COVID của Johnson & Johnson. Do đó, bạn có thể tự hỏi về nguy cơ gặp phải cục m.áu đông.
Mặc dù có rất nhiều yếu tố góp phần dẫn đến đông m.áu (bao gồm t.uổi, thuốc men, mang thai và thậm chí cả chiều cao), một yếu tố nguy cơ quan trọng khác là nhóm m.áu. Một nghiên cứu mới vừa phát hiện một nhóm m.áu dễ bị đông m.áu hơn những nhóm m.áu khác.
Ảnh minh họa
Theo nghiên cứu mới, những người thuộc nhóm m.áu A dễ bị một số dạng đông m.áu nhất định
Nghiên cứu của Đại học Lund ở Thụy Điển, công bố trên tạp chí eLife ngày 27/4, đã kiểm tra sổ đăng ký sức khỏe của hơn 5 triệu người để tìm ra mối liên hệ tiềm ẩn giữa nhóm m.áu và hơn 1.000 bệnh. Nghiên cứu cho thấy những người có nhóm m.áu A dễ hình thành cục m.áu đông, cụ thể là thuyên tắc phổi và huyết khối tĩnh mạch cửa.
Thuyên tắc phổi là tắc nghẽn ở một trong những động mạch phổi trong phổi. Trong hầu hết các trường hợp, thuyên tắc phổi là do cục m.áu đông di chuyển đến phổi từ các tĩnh mạch sâu ở chân hoặc hiếm khi từ tĩnh mạch ở các bộ phận khác của cơ thể (huyết khối tĩnh mạch sâu). Còn huyết khối tĩnh mạch cửa là cục m.áu đông trong tĩnh mạch cửa, đưa m.áu từ ruột đến gan.
Một nghiên cứu trước đó trên tạp chí Arteriosclerosis, Thrombosis, and Vascular Biology của Hội Tim Hoa Kỳ (AHA) công bố tháng 1 năm 2020 cho thấy, so với những người có nhóm m.áu O, những người có nhóm m.áu A và B dễ phát triển huyết khối tĩnh mạch sâu hơn 51% và dễ phát triển thuyên tắc phổi hơn 47%. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây của Thụy Điển cho thấy những người nhóm m.áu A đặc biệt có nguy cơ.
Tuy nhiên, những loại cục m.áu đông này khác với cục m.áu đông liên quan đến vắc xin Johnson & Johnson, là những trường hợp đông m.áu kèm theo hội chứng giảm tiểu cầu (TTS), xảy ra khi một người có cục m.áu đông cùng với số lượng tiểu cầu thấp (giảm tiểu cầu). Tiểu cầu là những tế bào lưu thông trong m.áu và kết tập với nhau khi phát hiện ra các mạch m.áu bị tổn thương. Nhiều trường hợp trong số 15 trường hợp đông m.áu do vắc xin Johnson & Johnson bị huyết khối xoang tĩnh mạch não (CVST), một loại đông m.áu hiếm gặp và nghiêm trọng trong não.
Người thuộc nhóm m.áu O dễ bị rối loạn c.hảy m.áu
Trong khi những người thuộc nhóm m.áu O ít bị đông m.áu hơn, họ có nguy cơ cao mắc các vấn đề về m.áu khác. Nghiên cứu của Thụy Điển cho thấy những người nhóm m.áu O dễ bị rối loạn c.hảy m.áu, cụ thể là loét dạ dày và tá tràng. Các rối loạn c.hảy m.áu khác bao gồm bệnh ưa c.hảy m.áu, bệnh Von Willebrand và thiếu yếu tố II, V, VII, X hoặc XII.
Những người có bất kỳ nhóm m.áu dương nào, đặc biệt là nhóm m.áu O, dễ bị tăng huyết áp thai kỳ
Theo Bệnh viện Cleveland, tăng huyết áp thai kỳ xảy ra ở khoảng 10% các trường hợp mang thai, và nghiên cứu của Thụy Điển đã tìm thấy mối liên hệ giữa tình trạng này và nhóm m.áu. Theo nghiên cứu, những người có nhóm m.áu O hoặc nhóm m.áu RhD dương (nghĩa là bất kỳ nhóm m.áu dương nào) sẽ dễ bị tăng huyết áp thai kỳ.
Những người nhóm m.áu B ít có nguy cơ bị sỏi thận hơn
Một phát hiện khác trong nghiên cứu của Thụy Điển tập trung vào nhóm m.áu và sỏi thận, một mối liên hệ chưa được tìm hiểu nhiều trước đây. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những người có nhóm m.áu B giảm nguy cơ phát triển sỏi thận.
Tác giả chính của nghiên cứu, TS Gustaf Edgren, bác sĩ Khoa Tim mạch Bệnh viện Sdersjukhuset, nói: “Phát hiện của chúng tôi làm nổi bật những mối quan hệ mới và thú vị giữa các tình trạng bệnh như sỏi thận, tăng huyết áp thai kỳ và nhóm m.áu. Chúng đặt nền tảng cho các nghiên cứu trong tương lai để xác định các cơ chế đằng sau sự phát triển của bệnh, hoặc để nghiên cứu các cách mới để xác định và điều trị những người mắc một số tình trạng bệnh nhất định”.