Các bác sĩ cho biết việc phát hiện đâu là thủy đậu, đâu là sốt phát ban là cực kì quan trọng trong quá trình điều trị bệnh.
Thủy đậu và sốt phát ban rất dễ nhầm lẫn vì chúng đều xuất hiện những ban trên da. Việc phân biệt thủy đậu và sốt phát ban sẽ giúp người bệnh có biện pháp xử lý kịp thời, phòng tránh các biến chứng nguy hiểm tới sức khỏe.
1. Phân biệt nguyên nhân gây bệnh thủy đậu và sốt phát ban
Một trong những cách phân biệt thủy đậu và sốt phát ban chính là xem xét nguyên nhân gây bệnh của hai căn bệnh này.
Trong khi sốt phát ban là một bệnh n.hiễm t.rùng nhẹ thường xảy ra ở t.rẻ e.m, đặc biệt là những t.rẻ e.m ở độ t.uổi lên 2. Nguyên nhân gây sốt phát ban là hai chủng virus herpes phổ biến và virus herpes 6 và virus herpes 7 gây ra.
Còn thủy đậu là một căn bệnh có khả năng truyền nhiễm cao, do virus varicella zoster gây ra. Thủy đậu có thể xuất hiện ở cả t.rẻ e.m và người lớn.
2. Dấu hiệu nhận biết bệnh
Dấu hiệu nhận biết bệnh là một trong những phương pháp phân biệt thủy đậu và sốt phát ban dễ dàng nhất:
– Dấu hiệu nhận biết sốt phát ban:
Sốt phát ban được gây ra bởi các virus thông thường và hầu hết là lành tính. Triệu chứng của sốt phát ban là xuất hiện những ban đỏ nhưng mịn và sáng, ít gồ lên mặt da, ban nổi đồng loạt khắp cơ thể và sau khi bay thường không để lại sẹo hoặc vết thâm.
Triệu chứng của sốt phát ban là những ban đỏ mịn và sáng – Ảnh Internet.
– Bệnh thủy đậu có những triệu chứng nào?
Trong khi đó, bệnh thủy đậu sẽ xuất hiện trong khoảng từ 10 đến 14 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh. Thủy đậu là căn bệnh khởi phát đột ngột với dấu hiệu nhận biết là nổi mụn nước ở mặt, chi, sau đó lan nhanh ra toàn thân chỉ trong vòng 12 – 24 giờ.
Các mụn nước có đường kính từ 1 đến 3mm, có chứa dịch trong. Trong những trường hợp nặng, mụn nước sẽ to hoặc mụn sẽ có màu đục khi bị n.hiễm t.rùng.
Khi mắc thủy đậu, bệnh nhân là t.rẻ e.m thường kèm sốt nhẹ, biếng ăn; ở người lớn thì thường kèm sốt cao, đau đầu, đau cơ, nôn ói. Thủy đậu sẽ kéo dài trong khoảng 7 – 10 ngày nếu không có biến chứng, các nốt rạ sẽ khô dần, bong vảy, thâm da nơi nổi mụn nước, không có khả năng để lại sẹo. Nhưng nếu bị nhiễm thêm vi khuẩn mụn nước có thể để lại sẹo gây mất thẩm mỹ cho người mắc bệnh.
3. Cách điều trị bệnh khác nhau
Ở các bệnh nhân khỏe mạnh, căn bệnh thủy đậu thường tự khỏi mà không cần điều trị y khoa. Bác sĩ có thể kê đơn một số thuốc kháng histamin giúp giảm bớt tình trạng ngứa ngáy, khó chịu do căn bệnh gây ra.
Nếu người bệnh có nguy cơ cao gặp phải các biến chứng của bệnh thủy đậu, các bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc để rút ngắn thời gian n.hiễm t.rùng, giảm thiểu khả năng gặp biến chứng. Cụ thể, thuốc kháng virus acyclovir hay globulin miễn dịch dùng đường tiêm tĩnh mạch, dùng trong vòng 24 giờ sau khi triệu chứng phát ban đầu tiên xuất hiện có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của căn bệnh thủy đậu.
Các thuốc kháng histamin có thể làm giảm tình trạng ngứa ngáy của thủy đậu – Ảnh Internet.
Trong khi đó, sốt phát ban thường có diễn biến lành tính và chỉ sau 3 ngày, các nốt phát ban sẽ dần biến mất. Vì vậy, người bệnh chỉ cần hạ sốt, cung cấp nước, trái cây, rau xanh… thì bệnh sẽ mau khỏi và không để lại biến chứng nào nguy hiểm.
Theo các bác sĩ, người bệnh có thể dùng acetaminophen, paracetamol hoặc ibuprofen để hạ sốt trong trường hợp người bị sốt phát ban sốt cao.
4. Phân biệt qua biến chứng của bệnh
Dù cả thủy đậu và sốt phát ban đều là những căn bệnh không đe dọa tới tính mạng của người bệnh nhưng nếu chúng để lại các biến chứng thì lại rất nguy hiểm và hai căn bệnh này để lại những biến chứng khác nhau.
– Biến chứng của thủy đậu:
Như đã nói, thủy đậu là căn bệnh thông thường nhưng nếu không được chăm sóc và điều trị kịp thời, người bệnh có thể gặp những biến chứng rất nguy hiểm tới sức khỏe, thậm chí là t.ử v.ong.
Cụ thế, những biến chứng có thể gặp ở bệnh nhân thủy đậu là: Mất nước; Nhiễm khuẩn da, mô mềm, xương, khớp hoặc m.áu; Mất nước; Viêm phổi; Viêm não; Sốc nhiễm độc; Hội chứng Reye đối với những người bệnh dùng aspirin trong thời gian bị thủy đậu.
– Biến chứng của sốt phát ban :
Sốt phát ban là căn bệnh không nghiêm trọng, nhưng nếu để sốt quá cao có thể dẫn tới các biến chứng. Cụ thể, các biến chứng của sốt phát ban là co giật; biến chứng viêm phổi hay viêm não đối với những bệnh nhân có hệ miễn dịch bị tổn hại (người vừa cấy ghép nội tạng hay tủy xương).
Co giật là một trong những biến chứng của sốt phát ban – Ảnh Internet.
5. Chế độ dinh dưỡng của bệnh khác nhau
Một trong những cách phân biệt thủy đậu và sốt phát ban là phân biệt qua chế độ dinh dưỡng của người bệnh.
Theo đó, những người bị thủy đậu nên ăn thức ăn mềm như cháo, khoai tây nghiền; các thức ăn lạnh như kem, sinh tố…; các loại hoa quả không chứa axit,… Người bị thủy đậu không nên dùng các thực phẩm mặn, cay, cứng, giòn và những thực phẩm nóng để tránh tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong khi đó, những người bị sốt phát ban không nên kiêng cữ quá nhiều. Bệnh nhân sốt cần đặc biệt chú ý bổ sung đủ lượng nước cho cơ thể vì sốt rất dễ gây mất nước. Người bệnh có thể uống nước lọc, sinh tố, nước điện giải.
Ngoài ra, người bị sốt phát ban nên ăn nhiều hơn bình thường và những thực phẩm lỏng như cháo, súp, sữa,… và kiêng thực phẩm như: trứng; các thức ăn khó tiêu, nhiều dầu mỡ; nước lạnh hay nước ngọt có ga.
6. Cách phòng ngừa bệnh
Thủy đậu và sốt phát ban khác nhau ngay từ cách phòng ngừa bệnh:
Đối với bệnh thủy đậu, cách tốt nhất để phòng ngừa căn bệnh này là tiêm vaccine. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), hiệu quả của vaccine ngừa thủy đậu là gần 98% khi nhận đủ hai liều tiêm chủng theo khuyến cáo.
Trong khi đó, sốt phát ban là căn bệnh không có vaccine phòng bệnh. Vì vậy, cách tốt nhất để ngăn ngừa sự lây truyền virus là tránh tiếp xúc với những người bị sốt phát ban.
Acyclovir có an toàn cho phụ nữ có thai và cho con bú?
Thông thường khi mắc Zona hoặc Herpes có thể sử dụng acyclovir bôi hoặc uống để điều trị. Tuy nhiên, với phụ nữ mang thai và cho con bú nếu bị Zona hoặc Herpes việc dùng loại thuốc này có an toàn?
Thuốc acyclovir trong điều trị kháng virus
Thuốc acyclovir có mặt trong rất nhiều sản phẩm thuốc trên thị trường như: acirax, acyvir, azalovir, dovirex, kemivir, lacovir, osafovir… là thuốc kháng virus; được dùng trong điều trị nhiễm virus Herpes simplex (type 1 và type 2) lần đầu và tái phát ở niêm mạc – da (viêm miệng, lợi, bộ phận s.inh d.ục), viêm não – màng não, ở mắt (viêm giác mạc).
Bên cạnh đó, thuốc cũng được dùng trong điều trị Zona, dự phòng biến chứng mắt do Zona mắt. Ngoài ra, thuốc còn có một số chỉ định khác như dùng điều trị nhiễm virus Varicella Zoster, thủy đậu.
Với mỗi loại bệnh, nặng hoặc nhẹ, các bác sĩ sẽ lựa chọn loại thuốc, liều lượng thích hợp. Tuy nhiên, tuyệt đối không tự ý sử dụng thuốc để tránh những tác dụng phụ không đáng có. Không dùng thuốc cho bệnh nhân mẫn cảm với thuốc hoặc một số thành phần của thuốc.
Bên cạnh đó, các chuyên gia khuyên, nên điều trị với thuốc acyclovir càng sớm càng tốt khi có dấu hiệu và triệu chứng của bệnh. Ở dạng uống, cần thay đổi liều acyclovir tùy chỉ định. Với dạng bôi, dùng qua da (dạng thuốc mỡ) cũng cần bôi ngay từ khi bắt đầu có triệu chứng để có hiệu quả tốt nhất. Chính vì vậy, khi có triệu chứng cần đi khám tại các phòng khám uy tín để được điều trị kịp thời.
Nên ưu tiên dùng thuốc tại chỗ khi có thể đối với phụ nữ cho con bú.
Lưu ý khi dùng thuốc cho phụ nữ mang thai và cho con bú
Aciclovir hấp thu kém qua đường uống, sinh khả dụng 10 – 20%, phân bố rộng trong dịch cơ thể và cơ quan. Thuốc chậm thải trừ hơn ở bệnh nhân giảm chức năng thận. Khi bôi lên da, thuốc hấp thu rất ít. Khi dùng đường uống, thuốc qua được hàng rào nhau thai; phân bố được vào sữa mẹ với nồng độ gấp 3 lần trong huyết thanh mẹ.
Thuốc được sử dụng trên một số lượng giới hạn phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ trong độ t.uổi sinh đẻ mà không quan sát thấy sự gia tăng dị tật thai nhi hoặc các tác hại trực tiếp hoặc gián tiếp khác đến thai nhi. Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy có bằng chứng thuốc làm tăng tổn thương thai nhi, nhưng chưa chắc chắn về mức độ ý nghĩa của bằng chứng này với người.
Độc tính của thuốc acyclovir trên phụ nữ có thai
Một số bằng chứng hiện tại trên người không cho thấy tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh ở trẻ có mẹ dùng acyclovir trong thời kỳ mang thai. Sử dụng acyclovir tại chỗ điều trị Herpes cũng không cho thấy tác hại nào.
Độc tính của thuốc acyclovir trên phụ nữ cho con bú
Các nhà khoa học cho biết, chưa quan sát thấy các triệu chứng độc tính trên trẻ bú mẹ, và ngay cả kể sử dụng acyclovir trên trẻ sơ sinh cũng cho thấy dung nạp tốt. Sử dụng acyclovir tại chỗ trên diện tích da nhỏ, xa vùng cho con bú ít gây nguy hiểm với trẻ bú mẹ.
Ngay cả với liều aciclovir cao nhất ở mẹ, nồng độ aciclovir trong sữa chỉ khoảng 1% và ít có khả năng gây ra tác dụng phụ ở trẻ bú mẹ, tuy nhiên vẫn nên thận trọng khi sử dụng.
Sử dụng thuốc acyclovir an toàn cho phụ nữ có thai và cho con bú
Ở phụ nữ có thai: Nếu chỉ định thuốc kháng virus đường toàn thân điều trị tình trạng nặng ở mẹ mang thai, hoặc để bảo vệ thai nhi tránh n.hiễm t.rùng trong tử cung với lợi ích vượt trội so với nguy cơ, thuốc được ưu tiên và đ.ánh giá tốt hơn cả đó là acyclovir hoặc valacyclovir. Acyclovir cũng là thuốc ưu tiên sử dụng điều trị tại chỗ Herpes.
Ở phụ nữ cho con bú: Mặc dù aciclovir được ưu tiên hơn cả nếu có chỉ định điều trị kháng virus trong thời kỳ này nhưng vẫn nên thận trọng. Nếu có thể, nên dùng đường tại chỗ.
Có thể cho con bú khi sử dụng acyclovir tại chỗ hoặc đường toàn thân điều trị Herpes. Với dạng tại chỗ, chỉ nên dùng các kem hoặc gel thân nước, tránh thuốc mỡ để hạn chế lượng parafin trong thuốc mỡ trẻ nuốt phải khi bú mẹ của trẻ.
Khi sử dụng thuốc, người dùng đôi khi buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên, các triệu chứng này thường hiếm và nhẹ, tự hết, nhưng nếu có các triệu chứng nặng, nên ngưng thuốc ngay và báo cho bác sĩ chuyên khoa để có hướng xử lý kịp thời.