Thận trọng với tác dụng phụ của các thuốc điều trị thủy đậu

Thuốc kháng virus, thuốc hạ sốt, thuốc kháng histamin,… là những thuốc thường dùng trong điều trị thủy đậu. Nắm vững các tác dụng phụ của thuốc là cơ sở để phát hiện và xử lý sớm các tác dụng không mong muốn do thuốc gây nên trong quá trình điều trị.

Trong quá trình điều trị thủy đậu, nhiều loại thuốc khác nhau có thể được chỉ định để làm giảm các triệu chứng, cải thiện tiên lượng bệnh và rút ngắn thời gian điều trị.

Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng thuốc điều trị thủy đậu bệnh nhân cũng có những nguy cơ nhất định phải đối mặt với các tác dụng phụ do thuốc gây ra với sức khỏe. Vì vậy, nắm được các tác dụng phụ của thuốc giúp phát hiện sớm và dự phòng các tác dụng không mong muốn do thuốc gây nên.

Tác dụng phụ của một số loại thuốc điều trị thủy đậu thường dùng hiện nay:

1. Thuốc điều trị thủy đậu nhóm kháng virus

Các thuốc điều trị thủy đậu nhóm kháng virus được sử dụng để ngăn chặn sự nhân lên của virus trong cơ thể, giúp giảm nhẹ các biểu hiện của bệnh và rút ngắn thời gian mắc bệnh. Trong đó, Acyclovir là loại thuốc điều trị thủy đậu nhóm kháng virus thường được dùng nhất hiện nay.

Những biểu hiện tác dụng phụ khi sử dụng Acyclovir làm thuốc điều trị thủy đậu cũng thay đổi nhiều tùy thuộc vào đường sử dụng thuốc mà bệnh nhân được chỉ định. Nếu sử dụng thuốc bằng đường uống dưới dạng viên nén, bệnh nhân có thể gặp phải tình trạng nôn hoặc buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng hoặc các rối loạn thần kinh như chóng mặt, buồn ngủ, lẫn lộn, ảo giác,…

Nếu bệnh nhân sử dụng Acyclovir dưới dạng bôi tại chỗ để điều trị thủy đậu thì cảm giác bỏng rát tại vị trí bôi là tác dụng phụ thường gặp nhất do thuốc.

Thuốc kháng virus trong điều trị thủy đậu có thể gây nên các tác dụng phụ như nôn hoặc buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy,… (Ảnh: Internet)

2. Tác dụng phụ khi sử dụng thuốc giảm đau, hạ sốt

Trong điều trị bệnh thủy đậu, Paracetamol rất thường được sử dụng để giảm đau và hạ sốt cho bệnh nhân.

Với liều điều trị thông thường, Paracetamol là thuốc khá lành tính và rất ít gây tác dụng phụ. Nhưng nếu sử dụng liều cao thì thuốc có thể gây nên các tổn thương cho gan (do thuốc được chuyển hóa ở gan). Trong trường hợp nặng khi sử dụng với liều quá lớn Paracetamol trong thời gian ngắn (lớn hơn 10g/24h), thuốc thậm chí có thể gây nên tình trạng hoại tử tế bào gan ở người bệnh và có thể dẫn đến t.ử v.ong.

Do đó, khi sử dụng Paracetamol để giảm đau và hạ sốt cho bệnh nhân thủy đậu, ta không nên lạm dụng thuốc mà chỉ nên sử dụng thuốc khi bệnh nhân sốt cao trên 38,5 độ C và các biện pháp hạ nhiệt vật lý như lau mát, cởi bỏ bớt quần áo không có hiệu quả. Đồng thời cũng cần thận trọng khi sử dụng Paracetamol để điều trị thủy đậu cho các bệnh nhân có chức năng gan suy giảm (viêm gan virus, xơ gan,…).

3. Thuốc bôi ngoài da xanh methylen

Nhìn chung, khi bôi xanh methylen ngoài da vào vị trí của các nốt phỏng nước trong điều trị bệnh thủy đậu hầu như rất ít hoặc không có tác dụng phụ nào đáng kể trên bệnh nhân. Thường thì bệnh nhân sẽ có thể chỉ cảm thấy khó chịu đôi chút vì thuốc có màu xanh nên khi bôi lên da nhìn sẽ khám nhem nhuốc.

Xanh methylen bôi sát trùng ngoài da cho bệnh nhân thủy đậu rất ít gây tác dụng phụ cho bệnh nhân (Ảnh: Internet)

4. Tác dụng phụ của thuốc kháng histamin

Các thuốc kháng histamin H1 được sử dụng để ngăn chặn tác dụng của histamin lên các thụ thể H1 của nó, từ đó giúp giảm các tác dụng do sự phóng thích histamin gây nên, đặc biệt là giảm ngứa. Vì thế, nó thường được dùng để làm giảm ngứa cho bệnh nhân trong điều trị thủy đậu.

Những tác dụng phụ của thuốc kháng histamin hay gặp nhất kể đến như buồn ngủ, ngủ gà, hoa mắt, kém tập trung,… vì thế thuốc cần thận trọng khi sử dụng cho các bệnh nhân phải làm việc trong môi trường tập trung cao độ. Các tác dụng phụ khác của thuốc cũng có thể mắc phải như khô miệng, bí tiểu tiện,… Và những tác dụng phụ này thường sẽ tăng khi bệnh nhân sử dụng rượu.

Trên đây là thông tin cơ bản về các tác dụng phụ thường gặp nhất của một số các thuốc điều trị thủy đậu thường dùng hiện nay. Để hạn chế các tác dụng phụ của thuốc, bệnh nhân cần tuân thủ tuyệt đối chỉ định của bác sĩ sau khi đã thăm khám và chẩn đoán bệnh đầy đủ.

Acyclovir có an toàn cho phụ nữ có thai và cho con bú?

Thông thường khi mắc Zona hoặc Herpes có thể sử dụng acyclovir bôi hoặc uống để điều trị. Tuy nhiên, với phụ nữ mang thai và cho con bú nếu bị Zona hoặc Herpes việc dùng loại thuốc này có an toàn?

Thuốc acyclovir trong điều trị kháng virus

Thuốc acyclovir có mặt trong rất nhiều sản phẩm thuốc trên thị trường như: acirax, acyvir, azalovir, dovirex, kemivir, lacovir, osafovir… là thuốc kháng virus; được dùng trong điều trị nhiễm virus Herpes simplex (type 1 và type 2) lần đầu và tái phát ở niêm mạc – da (viêm miệng, lợi, bộ phận s.inh d.ục), viêm não – màng não, ở mắt (viêm giác mạc).

Bên cạnh đó, thuốc cũng được dùng trong điều trị Zona, dự phòng biến chứng mắt do Zona mắt. Ngoài ra, thuốc còn có một số chỉ định khác như dùng điều trị nhiễm virus Varicella Zoster, thủy đậu.

Với mỗi loại bệnh, nặng hoặc nhẹ, các bác sĩ sẽ lựa chọn loại thuốc, liều lượng thích hợp. Tuy nhiên, tuyệt đối không tự ý sử dụng thuốc để tránh những tác dụng phụ không đáng có. Không dùng thuốc cho bệnh nhân mẫn cảm với thuốc hoặc một số thành phần của thuốc.

Bên cạnh đó, các chuyên gia khuyên, nên điều trị với thuốc acyclovir càng sớm càng tốt khi có dấu hiệu và triệu chứng của bệnh. Ở dạng uống, cần thay đổi liều acyclovir tùy chỉ định. Với dạng bôi, dùng qua da (dạng thuốc mỡ) cũng cần bôi ngay từ khi bắt đầu có triệu chứng để có hiệu quả tốt nhất. Chính vì vậy, khi có triệu chứng cần đi khám tại các phòng khám uy tín để được điều trị kịp thời.

Nên ưu tiên dùng thuốc tại chỗ khi có thể đối với phụ nữ cho con bú.

Lưu ý khi dùng thuốc cho phụ nữ mang thai và cho con bú

Aciclovir hấp thu kém qua đường uống, sinh khả dụng 10 – 20%, phân bố rộng trong dịch cơ thể và cơ quan. Thuốc chậm thải trừ hơn ở bệnh nhân giảm chức năng thận. Khi bôi lên da, thuốc hấp thu rất ít. Khi dùng đường uống, thuốc qua được hàng rào nhau thai; phân bố được vào sữa mẹ với nồng độ gấp 3 lần trong huyết thanh mẹ.

Thuốc được sử dụng trên một số lượng giới hạn phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ trong độ t.uổi sinh đẻ mà không quan sát thấy sự gia tăng dị tật thai nhi hoặc các tác hại trực tiếp hoặc gián tiếp khác đến thai nhi. Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy có bằng chứng thuốc làm tăng tổn thương thai nhi, nhưng chưa chắc chắn về mức độ ý nghĩa của bằng chứng này với người.

Độc tính của thuốc acyclovir trên phụ nữ có thai

Một số bằng chứng hiện tại trên người không cho thấy tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh ở trẻ có mẹ dùng acyclovir trong thời kỳ mang thai. Sử dụng acyclovir tại chỗ điều trị Herpes cũng không cho thấy tác hại nào.

Độc tính của thuốc acyclovir trên phụ nữ cho con bú

Các nhà khoa học cho biết, chưa quan sát thấy các triệu chứng độc tính trên trẻ bú mẹ, và ngay cả kể sử dụng acyclovir trên trẻ sơ sinh cũng cho thấy dung nạp tốt. Sử dụng acyclovir tại chỗ trên diện tích da nhỏ, xa vùng cho con bú ít gây nguy hiểm với trẻ bú mẹ.

Ngay cả với liều aciclovir cao nhất ở mẹ, nồng độ aciclovir trong sữa chỉ khoảng 1% và ít có khả năng gây ra tác dụng phụ ở trẻ bú mẹ, tuy nhiên vẫn nên thận trọng khi sử dụng.

Sử dụng thuốc acyclovir an toàn cho phụ nữ có thai và cho con bú

Ở phụ nữ có thai: Nếu chỉ định thuốc kháng virus đường toàn thân điều trị tình trạng nặng ở mẹ mang thai, hoặc để bảo vệ thai nhi tránh n.hiễm t.rùng trong tử cung với lợi ích vượt trội so với nguy cơ, thuốc được ưu tiên và đ.ánh giá tốt hơn cả đó là acyclovir hoặc valacyclovir. Acyclovir cũng là thuốc ưu tiên sử dụng điều trị tại chỗ Herpes.

Ở phụ nữ cho con bú: Mặc dù aciclovir được ưu tiên hơn cả nếu có chỉ định điều trị kháng virus trong thời kỳ này nhưng vẫn nên thận trọng. Nếu có thể, nên dùng đường tại chỗ.

Có thể cho con bú khi sử dụng acyclovir tại chỗ hoặc đường toàn thân điều trị Herpes. Với dạng tại chỗ, chỉ nên dùng các kem hoặc gel thân nước, tránh thuốc mỡ để hạn chế lượng parafin trong thuốc mỡ trẻ nuốt phải khi bú mẹ của trẻ.

Khi sử dụng thuốc, người dùng đôi khi buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên, các triệu chứng này thường hiếm và nhẹ, tự hết, nhưng nếu có các triệu chứng nặng, nên ngưng thuốc ngay và báo cho bác sĩ chuyên khoa để có hướng xử lý kịp thời.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *