Thử nghiệm kiểm soát các triệu chứng ung thư hiệu quả bằng… máy tính

Hàng trăm bệnh nhân ung thư đã được hưởng lợi từ việc sử dụng các thuật toán máy tính để quản lý các triệu chứng và cải thiện sức khỏe của họ trong một thử nghiệm duy nhất ở Anh.

Các thuật toán trên máy tính giúp các bệnh nhân ung thư kiểm soát được các triệu chúng của mình từ xa, không phải tới bệnh viện, thật hữu ích trong đại dịch COVID-19.

Các bệnh nhân ung thư đại trực tràng, ung thư vú hoặc ung thư phụ khoa giai đoạn đầu đã tham gia thử nghiệm hệ thống eRAPID do Đại học Leeds phát triển. Nghiên cứu này cho phép họ báo cáo các triệu chứng trực tuyến tại nhà và nhận được lời khuyên tức thì về việc nên tự kiểm soát hoặc tìm kiếm sự chăm sóc y tế .

Các bệnh nhân báo cáo kiểm soát triệu chứng tốt hơn và tình trạng sức khỏe thể chất tốt hơn trong những tuần đầu điều trị, với hệ thống ngăn ngừa sự suy giảm triệu chứng ở khoảng 9% bệnh nhân sau 12 tuần.

Các bệnh nhân cho biết, họ tự tin hơn trong việc quản lý sức khỏe của họ khi kết thúc thời gian thử nghiệm kéo dài 4 tháng.

Kết quả chứng minh rằng những cải thiện về thể chất của bệnh nhân có thể đạt được một cách hiệu quả về chi phí mà không làm tăng khối lượng công việc của bác sĩ lâm sàng.

Đây là thử nghiệm đầu tiên cung cấp lời khuyên tự động và là một trong số ít thử nghiệm chủ yếu tập trung vào những bệnh nhân giai đoạn đầu có mục đích điều trị chữa khỏi ung thư.

Giáo sư Galina Velikova, người đứng đầu chương trình, tại Viện Nghiên cứu Y khoa Leeds tại St James’s, Đại học Leeds, và Trung tâm Ung thư Leeds, Bệnh viện Giảng dạy Leeds NHS Trust, cho biết: “Ngày càng có nhiều bệnh nhân ung thư đang được điều trị bằng nhiều loại thuốc chống ung thư. Điều này có nghĩa là bệnh nhân đang sống lâu hơn và cần thời gian chăm sóc và theo dõi lâu hơn.

“Các tùy chọn giám sát trực tuyến từ xa có tiềm năng trở thành một phương pháp tiếp cận lấy bệnh nhân làm trung tâm, an toàn và hiệu quả để hỗ trợ bệnh nhân trong quá trình điều trị ung thư và quản lý khối lượng công việc lâm sàng ngày càng tăng để chăm sóc ung thư.”

Tiến sĩ Kate Absolom, Nghiên cứu viên Đại học tại Viện Nghiên cứu Y khoa Leeds tại St James’s và Viện Khoa học Y tế Leeds tại Đại học Leeds, cho biết: “Những kết quả đáng khích lệ từ nghiên cứu này sẽ giúp mở đường cho sự phát triển và cải tiến trong tương lai. Những can thiệp này trong các môi trường ung thư rộng lớn hơn. Đại dịch COVID-19 đã nêu bật sự cần thiết và đẩy nhanh sự chuyển dịch sang chăm sóc hỗ trợ bằng công nghệ, vì vậy những kết quả nghiên cứu này rất kịp thời. ”

Bệnh nhân ung thư có thể gặp một loạt các triệu chứng, có thể do chính bệnh ung thư gây ra, do các bệnh lý khác hoặc do tác dụng phụ của hóa trị và các phương pháp điều trị khác, đôi khi đe dọa đến tính mạng và cần phải nhập viện khẩn cấp.

Các triệu chứng có thể làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Việc theo dõi và quản lý tốt hơn có thể cải thiện việc điều trị và giảm bớt tình trạng suy nhược cơ thể của bệnh nhân.

Được tài trợ bởi Viện Nghiên cứu Y tế Quốc gia (NIHR), thử nghiệm eRAPID nhằm xác định liệu có thể cải thiện việc kiểm soát triệu chứng bằng cách sử dụng tư vấn tự động, để cố gắng cải thiện sức khỏe của bệnh nhân. Nó bao gồm 508 bệnh nhân từ 18 đến 86 t.uổi đang bắt đầu hóa trị tại Trung tâm Ung thư Leeds. Tất cả bệnh nhân đều được chăm sóc bình thường, với 256 người nhận được hệ thống eRAPID như dịch vụ chăm sóc bổ sung.

Những người tham gia đã trả lời một tập hợp các câu hỏi cụ thể về ung thư thông qua báo cáo triệu chứng trực tuyến mỗi tuần một lần hoặc khi các triệu chứng mới xuất hiện, trong thời gian nghiên cứu 18 tuần. Sử dụng các mức độ nghiêm trọng của triệu chứng, một thuật toán máy tính do các nhà nghiên cứu và bác sĩ thiết kế đã chấm điểm tất cả các câu trả lời và xác định lời khuyên mà bệnh nhân nhận được.

Các câu hỏi bao gồm mức độ đau, buồn nôn, dành thời gian trên giường và không đáp ứng nhu cầu của gia đình. Những người tham gia nhận được lời khuyên ngay lập tức về cách quản lý triệu chứng hoặc liên hệ với bệnh viện.

Các báo cáo triệu chứng ngay lập tức được hiển thị trong hồ sơ điện tử của bệnh nhân và các cảnh báo qua email về các báo cáo triệu chứng nghiêm trọng được gửi trực tiếp đến các bác sĩ lâm sàng.

Tổng số 3.314 báo cáo trực tuyến đã được hoàn thành, báo cáo 18.867 triệu chứng riêng lẻ trung bình 13 báo cáo cho mỗi bệnh nhân. Cảnh báo khẩn cấp đã được gửi 29 lần (dưới 1%), trong khi các triệu chứng nghiêm trọng không cần chăm sóc y tế ngay lập tức được báo cáo là 461 lần (14%). Hơn 80% các triệu chứng tự báo cáo đã kích hoạt tư vấn tự quản lý, cung cấp giải pháp hiệu quả về chi phí với kết quả tốt hơn cho bệnh nhân.

Lợi ích lâm sàng đối với sức khỏe thể chất của bệnh nhân được thấy đặc biệt ở giai đoạn đầu điều trị, từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 12, khi những thách thức trong việc kiểm soát các tác dụng phụ được mong đợi.

Lời khuyên ngay lập tức làm tăng niềm tin của bệnh nhân trong việc kiểm soát các triệu chứng liên quan đến điều trị ở mức độ nhẹ và vừa, có thể tác động đáng kể đến chất lượng cuộc sống và khả năng tiếp tục điều trị của bệnh nhân.

Và dữ liệu thử nghiệm cho thấy, không có sự gia tăng khối lượng công việc của bệnh viện, không có sự khác biệt trong việc phân phối hóa chất và không ảnh hưởng đến an toàn của bệnh nhân.

Julia Brown, Giáo sư Nghiên cứu Thử nghiệm Lâm sàng và Giám đốc Viện Nghiên cứu Thử nghiệm Lâm sàng Đại học Leeds, thuộc Trường Y, cho biết: “Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng kịp thời và quan trọng cho thấy việc theo dõi bệnh nhân ung thư theo thời gian thực từ xa, đặc biệt cần thiết trong điều kiện đại dịch COVID-19 là khả thi và có thể cải thiện thể chất của bệnh nhân. ”

Một số nguyên tắc chung của thuốc chống ung thư

Trước khi điều trị bằng thuốc chống ung thư (TCUT), ngoài một chế độ dinh dưỡng tốt, bệnh nhân còn cần chú ý tới ba việc quan trọng khác, bao gồm: Sàng lọc viêm gan siêu vi, tiêm chủng trước và trong khi điều trị, đồng thời cần tìm hiểu kỹ các thông tin về các loại thuốc bạn sẽ/đang được dùng để điều trị.

Sàng lọc viêm gan siêu vi trước khi điều trị

Trước khi điều trị bằng thuốc chống ung thư (TCUT), bệnh nhân nên được sàng lọc xem có bị nhiễm virus viêm gan B hay không. Vì TCUT có thể gây ức chế miễn dịch/tuỷ xương dẫn đến nguy cơ bùng phát viêm gan do virus. Nếu xét nghiệm cho kết quả dương tính, hãy hỏi lời khuyên từ bác sĩ chuyên khoa vì điều trị phòng ngừa có thể là cần thiết. Theo dõi biểu hiện bệnh cũng như xét nghiệm liên quan đến viêm gan B trong khi dùng TCUT và cho đến 12 tháng sau khi kết thúc điều trị bằng TCUT.

Nên kiểm tra xem trong cơ thể có những ổ n.hiễm t.rùng nào khác hay không, vì TCUT có thể làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể và tăng nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm (lao, sâu răng,…).

Tiêm chủng trước và trong khi điều trị

Các đáp ứng miễn dịch với vắc-xin có thể không đầy đủ trong khi đang điều trị với các TCUT ức chế miễn dịch-tủy xương. KHÔNG NÊN TIÊM những vắc-xin có vi sinh vật sống giảm độc lực (live vaccine như vaccine sởi, thủy đậu,…) vì chúng có thể làm bệnh bùng phát. Nên có lời khuyên của chuyên gia về thời điểm chích ngừa/tiêm chủng thích hợp.

Đối với phụ nữ

Mặc dù một số TCUT có liên quan đến nguy cơ vô sinh nhưng cần đảm bảo việc ngừa thai trong thời gian sử dụng thuốc và cho đến 3-6 tháng sau khi kết thúc dùng thuốc. Lời khuyên này cũng áp dụng cho phụ nữ có bạn tình là nam giới mắc bệnh phải dùng TCUT. Thời gian sử dụng các biện pháp tránh thai ngắn hay dài là tùy vào loại thuốc cụ thể và khả năng ảnh hưởng trên bào thai của thuốc. Bạn có thể cần hỏi thêm lời khuyên từ chuyên gia đáng tin cậy về vấn đề này.

Các biện pháp tránh thai có thể phải tiếp tục sau khi điều trị, cho đến khi nguy cơ tái phát giảm hẳn.

Nên có lời khuyên của chuyên gia về thời điểm chích ngừa/tiêm chủng thích hợp. (Ảnh: Internet)

Đối với phụ nữ mang thai

Việc dùng TCUT cho phụ nữ đang mang thai cần phải thận trọng và cân nhắc lợi ích và nguy cơ một cách toàn diện.

Nhiều TCUT gây quái thai ở thử nghiệm trên động vật. Vì dữ liệu trên người còn hạn chế và các TCUT thường dùng phối hợp một vài loại thuốc nên nguy cơ gây quái thai trên con người vẫn chưa rõ ràng. Nên tìm thêm thông tin từ các chuyên gia.

Các bác sĩ thường tránh dùng TCUT ở giai đoạn 3 tháng đầu thai kỳ (

Nhìn chung, có thể điều trị với TCUT ở 6 tháng cuối thai kỳ vì nguy cơ thai dị dạng không tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, nguy cơ thai nhi chậm phát triển, thai nhẹ cân và thai c.hết lưu có thể cao hơn.

Đối với phụ nữ đang cho con bú

Vì các dữ liệu ở tình huống này chưa đầy đủ nên nhìn chung không nên cho con bú sữa mẹ trong khi điều trị với TCUT vì nguy cơ tác dụng phụ trên trẻ sơ sinh. Nên hỏi thêm các chuyên gia về từng trường hợp.

Tham khảo thêm

Kế hoạch chăm sóc và theo dõi sức khỏe bệnh nhân sau điều trị ung thư

Tư vấn bệnh nhân khi sử dụng TCUT

Một số thuốc khác (không phải TCUT) có thể có tương tác với TCUT, bạn nên hỏi bác sĩ chuyên khoa hay dược sĩ trước khi dùng thêm các thuốc khác, kể cả các thuốc kê đơn, thuốc không cần kê đơn hoặc các chế phẩm thay thế (như đông y, thực phẩm chức năng…). Hãy in ra và đọc/tìm hiểu thêm thông tin về các loại thuốc bạn sẽ/đang được dùng để điều trị.

Hầu hết TCUT đều có tác dụng phụ, đôi khi xuất hiện các tác dụng phụ nghiêm trọng. Bác sĩ điều trị có thể chỉ định thêm thuốc khác để làm giảm hoặc điều trị tác dụng phụ.

Bệnh nhân nên tìm hiểu những tác dụng phụ nào có thể xảy ra và khi nào cần đi khám bác sĩ. Bệnh nhân cũng nên hỏi nhóm chăm sóc y tế về những biểu hiện cần lưu ý để phản hồi cho nhân viên y tế kịp thời.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *