Tại Việt Nam, cứ 100 loại thuốc được sử dụng là có một loại kháng sinh, 1/3 bệnh nhân nội trú đang sử dụng kháng sinh không cần thiết, 90% các trường hợp mua thuốc kháng sinh tại hiệu thuốc không cần kê đơn.
Nếu không kịp thời quản lý việc sử dụng kháng sinh chặt chẽ, chúng ta sẽ không còn “vũ khí” để chiến đấu với những bệnh n.hiễm t.rùng.
Đó là cảnh báo của thạc sĩ – dược sĩ Huỳnh Phương Thảo, Trưởng khoa Dược Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP.HCM. Với tình trạng sử dụng kháng sinh như hiện nay, đến năm 2050 thế giới sẽ có 10 triệu người c.hết vì đề kháng kháng sinh.
Tự mua kháng sinh và mặc cả liều lượng sử dụng
Phó giáo sư – tiến sĩ Ngô Thị Hoa, Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học Oxford, cho biết có mối liên hệ giữa việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và đề kháng kháng sinh trên con người – Ảnh: Thanh Huyền
Bộ Y tế quy định thuốc kháng sinh phải có toa bác sĩ nhưng thực tế, người dân có thể dễ dàng tự mua kháng sinh ở các tiệm thuốc. Một số người còn tự thêm bớt số ngày sử dụng thuốc kháng sinh theo ý mình.
Tại tiệm thuốc tây khu vực chợ Tân Mỹ (Q.7), một phụ nữ chừng 30 t.uổi đậu xe máy bước vào mua thuốc. Chị chẳng cần toa bác sĩ, đọc luôn tên thuốc cho nhân viên: “Em bán cho chị ba ngày Augmentin 250g (ngày hai gói), siro ho, vitamin C”. Khi nhân viên hỏi mua thuốc cho ai, bị bệnh gì, dùng kháng sinh ba ngày chưa đủ liều, thông thường phải từ 5 – 7 ngày… thì chị này nói “cho con gái bốn t.uổi, mua ba ngày kháng sinh thôi, uống từng đó bớt bệnh ngưng được rồi, uống nhiều kháng sinh đâu tốt”.
Rồi chị giãi bày rằng, con gái tháng nào cũng bị viêm hô hấp trên, đi bác sĩ uống theo toa thuốc thấy khỏi nên khi bị bệnh chị cứ mua đúng những loại thuốc theo toa cũ cho con uống. Chị biết dùng kháng sinh không tốt nhưng nếu cho uống mỗi siro ho thì bệnh của bé cứ kéo dài, chỉ có kết hợp kháng sinh mới mau hết các triệu chứng ho và sổ mũi.
Sau đó, một phụ nữ khác ghé vào tiệm, miêu tả triệu chứng ho, sốt kéo dài không khỏi, nhân viên bán thuốc bảo nếu ho kèm sốt là dấu hiệu bội nhiễm phải dùng kháng sinh, chị bèn tự mặc cả liều dùng với người bán thuốc. T.iền thuốc bao gồm cả kháng sinh cho 5 ngày lên tới gần 300.000 đồng, trong đó t.iền thuốc kháng sinh chiếm hơn một nửa nên vị khách hàng tiếc rẻ, cho rằng nhân viên bán thuốc cố vẽ thêm cho mình tốn t.iền nhiều.
Liên quan tình trạng sử dụng kháng sinh không cần thiết gây ra nguy cơ đề kháng kháng sinh, tiến sĩ – bác sĩ Nguyễn Văn Vĩnh Châu, Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP.HCM, Chủ tịch Liên chi hội truyền nhiễm TP.HCM, cho biết vẫn đang tồn tại thực trạng một số đoàn từ thiện tổ chức khám, tặng thuốc miễn phí và tặng luôn cả kháng sinh cho người dân. Điều này là không nên mặc dù có bác sĩ trong đoàn kê toa. Thực tế, không ít người dân khai nhiều triệu chứng, nhiều bệnh với bác sĩ của các đoàn từ thiện để được lấy nhiều bịch thuốc miễn phí về cất đi dùng dần.
Theo tiến sĩ – bác sĩ Nguyễn Văn Vĩnh Châu, không riêng Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới mà tại nhiều khoa hồi sức tích cực của các bệnh viện đã ghi nhận tình trạng bệnh nhân đa kháng thuốc và kháng luôn cả với kháng sinh Colistin – được coi là vũ khí cuối cùng để điều trị các bệnh lý n.hiễm t.rùng.
Đối với các trường hợp này, bệnh viện lập tức cách ly bệnh nhân vào phòng áp lực âm để vi khuẩn kháng thuốc không lây lan ra môi trường xung quanh và những bệnh nhân bên cạnh. Nếu đề kháng với tất cả loại kháng sinh thì cơ hội sống sót của bệnh nhân rất mong manh, chỉ có thể trông chờ vào đề kháng của chính cơ thể.
Đề kháng kháng sinh lây từ vật chăn nuôi qua người
Ngoài ra, mối nguy đề kháng kháng sinh trên con người còn có thể đến từ việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi.
Phó giáo sư – tiến sĩ Ngô Thị Hoa, Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học Oxford (đặt tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP.HCM), đã chỉ ra mối liên hệ giữa việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và đề kháng kháng sinh trên con người.
Cụ thể, các nhà nghiên cứu thuộc đơn vị này đã làm khảo sát trên 200 trại gà; khảo sát mẫu phân của gà, người trực tiếp chăn nuôi và cả những người sống trong vùng. Nhóm nghiên cứu đã ghi nhận kết quả 100% các trại gà có vi sinh đa kháng thuốc, tỷ lệ vi khuẩn E. Coli kháng với kháng sinh Tetracycline là 90%. Ngoài ra, hiện nay kháng sinh Colistin được dùng trong chăn nuôi rất phổ biến, có tới 33% người chăn nuôi tại các trại gà khảo sát có vi khuẩn kháng với kháng sinh Colistin. Ngay cả những dân cư trong vùng không liên quan trực tiếp tới các trại gà đó cũng cho tỷ lệ 10% bị nhiễm vi khuẩn E. Coli đề kháng với kháng sinh Colistin.
Ngay tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM, thỉnh thoảng các bác sĩ cũng tiếp nhận bệnh nhân là người g.iết mổ heo bị lây nhiễm liên cầu khuẩn heo. Khi làm kháng sinh đồ và xét nghiệm, các bác sĩ thấy liên cầu khuẩn trên các bệnh nhân này đề kháng với loại kháng sinh rất lạ hay dùng trong nông nghiệp. Việt Nam là nước thứ sáu trên thế giới dùng nhiều kháng sinh trong nông nghiệp. Nếu vẫn dùng kháng sinh như hiện nay thì vào năm 2030 lượng kháng sinh trong nông nghiệp của Việt Nam sẽ tăng 157% so với thời điểm hiện tại.
Theo dược sĩ Huỳnh Phương Thảo, người dân và ngành y tế cần có ý thức và tích cực hơn nữa để hạn chế tình trạng đề kháng kháng sinh. Cụ thể, dùng kháng sinh phải theo chỉ định của bác sĩ, đúng thời gian và đúng liều, phải phối hợp, xoay vòng kháng sinh. Cần có hệ thống giám sát toàn diện về kháng thuốc của quốc gia. Bởi hiện nay, với một ca n.hiễm t.rùng vào bệnh viện, các bác sĩ vẫn đang dùng cách cho bệnh nhân sử dụng kháng sinh bao vây theo kinh nghiệm điều trị, điều này góp phần làm tăng nguy cơ kháng thuốc.
Dấu hiệu của bệnh đau mắt đỏ ở trẻ nhỏ bạn không nên bỏ qua
Các bậc phụ huynh cần chú ý đến những dấu hiệu của bệnh đau mắt đỏ ở trẻ nhỏ để có cách xử lý và điều trị kịp thời.
Đau mắt đỏ là một căn bệnh truyền nhiễm ở mắt khá phổ biến ở mọi lứa t.uổi, đặc biệt là ở t.rẻ e.m. Bệnh xuất hiện nhiều vào thời điểm giao mùa hoặc ẩm thấp gây nhiều khó chịu cho người mắc phải.
Việc lưu ý đến những dấu hiệu của bệnh đau mắt đỏ ở trẻ nhỏ khiến việc điều trị được kịp thời, từ đó bệnh sẽ nhanh thuyên giảm và không để những di chứng liên quan đến thị lực và sức khỏe.
1. Đau mắt đỏ là gì?
Đau mắt đỏ hay còn được gọi là bệnh viêm kết mạc mắt. Đây là loại bệnh n.hiễm t.rùng ở mắt thường do các loại vi khuẩn, virus gây ra.
Virus là nguyên nhân gây đau mắt đỏ thường gặp nhất và dễ khởi phát thành dịch do khả năng lây lan từ người này sang người khác một cách nhanh chóng.
So sánh mắt bình thường và mắt bị viêm kết mạc (Ảnh: Internet)
Thông thường, kết mạc ở mắt người có màu trắng. Chúng là lớp màng niêm mạc lót bên trong mí mắt trên, dưới và nhãn cầu trước. Khi bị viêm nhiễm, kết mạc bị sung huyết và có màu đỏ.
2. Dấu hiệu của bệnh đau mắt đỏ ở trẻ nhỏ
Sau khi bị lây nhiễm, tùy theo các tác nhân gây bệnh và tình trạng sức khỏe của trẻ mà thời gian ủ bệnh và biểu hiện sẽ khác nhau. Tuy nhiên, một số dấu hiệu điển hình phổ biến khi trẻ bị đau mắt đỏ có thể dễ nhận thấy như:
– Cảm giác cộm, xốn, đau, nóng, ngứa và nặng ở mi mắt.
– Trẻ sợ ánh sáng và có thể bị chảy nước mắt.
– Mắt có nhiều ghèn, rỉ mắt có nhầy gây ra dính mi vào lúc thức dậy. Chất nhầy ở mắt có thể có màu vàng hoặc xanh nhạt và có thể là mủ trắng sữa, đặc hoặc lỏng.
– Tré khó chịu và quấy khóc nhiều.
– Kết mạc mắt không trong như bình thường mà bị sung huyết, sưng phù đỏ. Trường hợp nặng có thể bị phù nề hoặc sưng phù 2 mí mắt trên hoặc dưới.
Sưng phù mí mắt có thể xuất hiện ở những trẻ bị đau mắt đỏ nặng (Ảnh: Internet)
– Tình trạng đau mắt đỏ sẽ xuất hiện đầu tiên ở một bên mắt, sau đó lan dần sang mắt còn lại. Một số trường hợp có thể bị cả hai mắt một lúc.
– Nếu viêm kết mạc đơn thuần, thị lực không giảm. Tuy nhiên, nếu xuất tiết tập trung ở giác mạc, làm chảy nước mắt, trẻ có thể cảm thấy có sương mù trước mặt.
– Một số trẻ có thể bị nổi hạch trước tai.
Đau mắt đỏ ở trẻ nhỏ là một căn bệnh khá lành tính nhưng chúng vẫn có thể gây ra những biến chứng nếu không được chữa trị kịp thời.
Một số biến chứng hiếm gặp có thể kể tới như viêm giác đốm, viêm gác mạc sợi, viêm giác mạc sâu, viêm mủ túi lệ,… Trường hợp nghiêm trọng có thể gây sẹo giác mạc và giảm thị lực.
3. Cách chẩn đoán bệnh đau mắt đỏ ở trẻ
Để chẩn đoán bệnh đau mắt đỏ ở trẻ nhỏ, bác sĩ sẽ hỏi thăm các thông tin cần thiết như tình trạng sức khỏe chung của bé, t.iền căn dị ứng, các yếu tố nguy cơ và ghi nhận biểu hiện mắt đỏ của những người xung quanh bé để định bệnh chính xác.
Nếu cần thiết, bác sĩ sẽ chỉ định các phương pháp chẩn đoán chuyên biệt như kiểm tra thị lực, nhuộm – soi mắt, phết dịch mắt nuôi cấy và làm kháng sinh đồ…
Bác sĩ cũng có thể xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán bệnh đau mắt đỏ ở trẻ. Đây là một hình thức xét nghiệm tế bào bằng phương pháp nạo kết mạc. Kết quả cho thấy tỷ lệ bạch cầu đa nhân tăng cao nếu là căn nguyên vi khuẩn.
Khi tỷ lệ bạch cầu limpho chiếm ưu thế thì bệnh có thể do căn nguyên là virus. Với trường hợp tỷ lệ bạch cầu ái toan (Eosinophil) cao, trẻ đã mắc bệnh đau mắt đỏ do dị ứng, nếu thấy tế bào có thể vùi thì đó là viêm kết mạc do Chlamydia.