Mọi thay đổi ở ngực khiến bạn lo lắng đều nên đặt lịch khám bác sĩ.
Rất nhiều khi thủ phạm gây ra khối u và nốt sưng không phải là ung thư. Vậy lý do thực sự đằng sau chúng là gì?
Nếu bạn nhận thấy một khối u ở vú không biến mất hoặc một cục sưng giống như hạt lạc (hình dạng và kích thước điển hình của đa số khối u cơ hoặc u nang vú lành tính), hãy cứ đặt hẹn với bác sĩ để kiểm tra. Họ sẽ xác định liệu có cần làm thêm các xét nghiệm, như siêu âm vú, hay không. Ngay cả khi ngực không sờ thấy có khối u, thì việc bị sốt và nhận thấy những thay đổi về kích thước, hình dạng hoặc dáng vẻ của ngực (như nốt lõm, nhăn nheo, sưng, đỏ hoặc sạm da) cũng là những lý do để đi khám. Nói chung, mọi thay đổi ở ngực khiến bạn lo lắng đều nên đặt lịch khám bác sĩ.
Vậy, nếu ung thư không phải là thủ phạm, thì điều gì có thể gây ra khối u có vẻ ngẫu nhiên xuất hiện ở ngực? Dưới đây là những tình trạng bệnh có thể là lý do đằng sau những nốt u cục không mong muốn này.
1. U nang
U nang là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra khối u ở vú, theo CDC. Chúng hay gặp ở những phụ nữ bắt đầu độ t.uổi 40 và những phụ nữ mãn kinh sử dụng liệu pháp hormon. Các nang trong vú bắt đầu phát triển khi dịch tích tụ bên trong tuyến vú. Chúng có thể tạo thành những túi nhỏ chứa đầy dịch, thường có cảm giác như khối tròn, di động khi sờ, mặc dù một số có thể quá nhỏ không sờ thấy. Do những thay đổi về nội tiết, u nang có thể tăng kích thước và cảm thấy đau hơn trong những ngày trước kỳ “đèn đỏ”.
Bác sĩ có thể sẽ siêu âm để xem u nang có cấu tạo như thế nào. Các u nang chỉ chứa dịch (được gọi là u nang đơn thuần) thường không đáng lo và không cần phải loại bỏ trừ khi chúng làm phiền bạn. Nếu bạn có u nang phức tạp, chứa các thành phần rắn, có thể cần phải sinh thiết để loại trừ ung thư.
2. Bệnh vú xơ nang
Bệnh vú xơ nang là một nguyên nhân hàng đầu khác của khối u ở vú, theo CDC. Tình trạng này được định nghĩa là những thay đổi lành tính trong mô vú và thường xảy ra ở phụ nữ dưới 45 t.uổi và những người đang điều trị bằng liệu pháp thay thế hormon. Cùng với việc có mô dày đặc, xơ nang vú là những khối tròn hoặc bầu dục và mềm, xảy ra ở một hoặc cả hai vú.
Có đến một nửa số phụ nữ có những thay đổi xơ nang ở vú – triệu chứng của bệnh – tại một thời điểm nào đó trong đời, có thể bao gồm đau vú, khối u ở vú và núm vú nhạy cảm, ngứa ngáy trước hoặc trong kỳ k.inh n.guyệt. Những thay đổi xơ nang ở vú thường không cần điều trị, nhưng dùng thuốc giảm đau và chườm nóng hoặc chườm đá có thể giúp giảm triệu chứng. Tin tốt là: Bệnh vú xơ nang không làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú.
3. U xơ tuyến
U xơ tuyến (Fibroadenomas) – những khối u lành tính có cảm giác như một cục tròn, cứng ở vú khi sờ là khối u không ung thư phổ biến nhất xảy ra ở phụ nữ dưới 30 t.uổi. Những khối u không đau sờ cứng như đá hoa cương này có cấu tạo từ các thùy vú (còn gọi là tuyến sữa) và mô liên kết. Sinh thiết thường được thực hiện để đảm bảo chúng không phải là một phần của một bệnh lý nào đó nghiêm trọng hơn. Bác sĩ có thể đề nghị cắt bỏ u xơ tuyến nếu nó tiếp tục phát triển hoặc nếu nó thay đổi hình dạng của vú. Tuy nhiên, hầu hết có thể được theo dõi hàng năm mà không cần can thiệp phẫu thuật và một số thậm chí tự nhỏ đi
4. Adenosis
Thường gặp trong sinh thiết ở những phụ nữ bị bệnh vú xơ nang hoặc u nang, adenosis xảy ra khi các thùy vú bị giãn và có nhiều tuyến hơn bình thường. Khi các thùy nằm sát gần nhau, có thể cảm thấy như một khối u ở vú. Trong những trường hợp này, có thể khó phân biệt adenosis với ung thư, đặc biệt là nếu có lắng đọng muối khoáng, vì vậy bác sĩ có thể thực hiện sinh thiết. May mắn là tình trạng này không cần phải điều trị trừ khi nó gây khó chịu.
5. Hoại tử mỡ
Sau phẫu thuật vú, xạ trị hoặc chấn thương, cơ thể sẽ bắt đầu sửa chữa các mô mỡ bị tổn thương. Trong một số trường hợp, thường là khi người phụ nữ có cỡ ngực lớn, hoại tử mỡ có thể xảy ra. Điều này có nghĩa là mô vú bị thay thế bằng u nang hoặc mô sẹo, gây ra một khối tròn, chắc và thường không đau ở vú. Theo Hội Ung thư Mỹ, mặc dù da xung quanh khối u có thể đỏ, tím hoặc bị lõm, nhưng hoại tử mỡ thường không cần điều trị trừ khi khối u ở vú to lên hoặc gây khó chịu.
6. U nhú trong ống dẫn sữa
Hay gặp nhất ở phụ nữ từ 35 đến 55 t.uổi, những khối u lành tính, giống như mụn cơm này phát triển bên trong ống dẫn sữa, thường ở gần núm vú. Chúng có thể gây đau, gây khối u (thường ở phía sau hoặc bên cạnh núm vú) và tiết dịch trong, dính hoặc lẫn m.áu từ núm vú. Các sĩ có thể sẽ thực hiện sinh thiết để chẩn đoán khối u và thường cần phẫu thuật để loại bỏ khối u và một phần ống dẫn sữa. Nếu có nhiều u nhú trong ống dẫn sữa, nguy cơ ung thư có thể tăng nhẹ. Hiện người ta chưa biết có bất kỳ nguyên nhân hoặc yếu tố nguy cơ nào đối với u nhú trong ống dẫn sữa.
7. Giãn ống dẫn sữa
Hay gặp ở phụ nữ đến t.uổi mãn kinh, tình trạng vú lành tính này phát triển khi một ống dẫn sữa trong vú dày lên và bị tắc do chất dịch. Các chuyên gia chưa xác định chính xác nguyên nhân, nhưng những thay đổi trong mô vú do lão hóa có thể đóng một vai trò: Khi vú thay đổi từ đa phần là tuyến sữa thành đa phần là mô mỡ, ống dẫn sữa có thể bị tắc nghẽn. Các yếu tố nguy cơ khác có thể bao gồm hút thuốc, có thể làm giãn ống dẫn sữa và dẫn đến viêm và núm vú lộn vào trong, do đó có thể gây tắc ống dẫn sữa.
Bệnh không phải lúc nào cũng biểu hiện các triệu chứng, nhưng tiết dịch ở núm vú, núm vú nề hoặc đỏ và núm vú tụt vào trong có thể xảy ra. Nếu ống dẫn tắc bị n.hiễm t.rùng hoặc có mô sẹo xung quanh, nó có thể phát triển thành khối u cứng có thể bị nhầm lẫn với ung thư. Nếu khối u phát triển, có thể cần sinh thiết để loại trừ ung thư, nhưng giãn ống dẫn sữa thường tự hết mà không cần điều trị. Tuy nhiên, bác sĩ có thể khuyên bạn nên dùng thuốc giảm đau, đắp khăn ẩm và ấm lên ngực và sử dụng tấm lót để ngăn dịch chảy ra.
8. Viêm tuyến vú
Phụ nữ cho con bú có thể bị viêm tuyến vú, một tình trạng viêm phát triển khi ống dẫn sữa bị tắc và n.hiễm t.rùng. Vú có thể sưng, nóng, đỏ và đau, và có thể gặp các triệu chứng giống như cúm. Tình trạng này thường được điều trị bằng kháng sinh và bằng cách hút hết sữa ra khỏi vú.
Điều trị hiệu quả hơn nhờ kỹ thuật y khoa
Nhiều bệnh viện trên địa bàn TP HCM đã áp dụng các kỹ thuật y khoa mới, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân
Với việc ứng dụng những kỹ thuật cao chuyên sâu, các cơ sở y tế mở ra hy vọng mới, đem lại tin vui cho người bệnh.
Phát hiện sớm ung thư
Đây có thể nói là lĩnh vực được cộng đồng quan tâm hàng đầu. Đầu năm 2020, Bệnh viện (BV) Ung Bướu TP HCM đã đưa vào sử dụng hệ thống PET/CT trong chẩn đoán, điều trị ung thư mới.
Hệ thống PET/CT này là một trong những thế hệ máy hiện đại nhất tại Việt Nam hiện nay, với những đặc tính ưu việt như: giúp giảm liều thuốc phóng xạ, ghi hình ít hơn và thời gian ghi hình ngắn hơn. Vì vậy, số lượng bệnh nhân được sử dụng kỹ thuật tiên tiến này trong ngày sẽ nhiều hơn. Công suất máy tối đa có thể ghi hình đến 30 ca/ngày.
Hệ thống sẽ cung cấp thông tin cả cấu trúc giải phẫu và mức độ chuyển hóa của khối bướu, rất hữu ích cho bác sĩ (BS) trong việc chẩn đoán bệnh. Hệ thống có tính năng phân lập chính xác giai đoạn của hầu hết các loại ung thư như: ung thư vú, gan, phổi, đại tràng, tuyến giáp, tử cung… để đưa ra phác đồ điều trị thích hợp cho từng giai đoạn bệnh; đ.ánh giá hiệu quả đáp ứng điều trị; theo dõi và phát hiện ung thư tái phát; mô phỏng lập kế hoạch xạ trị.
Kỹ thuật sinh thiết tuyến t.iền liệt qua hướng dẫn siêu âm kết hợp hình ảnh MRI. Đây là kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới lần đầu tiên triển khai tại Bệnh viện Bình Dân (TP HCM)
Đặc biệt, hệ thống PET/CT còn có khả năng ứng dụng trong lĩnh vực tim mạch và thần kinh, giúp đ.ánh giá tình trạng “sức khỏe” của cơ tim, chẩn đoán các bệnh sa sút trí tuệ như Alzheimer và phát hiện ổ động kinh.
Với việc ứng dụng kỹ thuật này, BV Ung Bướu trở thành BV thứ 4 trên địa bàn TP (sau BV Chợ Rẫy, BV Nhân dân 115 và BV Quân y 175) và là BV thứ 10 tại Việt Nam có hệ thống máy PEC/CT.
TS-BS Phạm Xuân Dũng, Giám đốc BV Ung Bướu, cho biết việc đưa vào vận hành hệ thống PET/CT này rất thiết thực, giúp BV giải quyết được một lượng lớn bệnh nhân ở khu vực TP HCM và các tỉnh, thành phía Nam.
Giải tỏa nỗi niềm bệnh đàn ông
Một tin vui khác dành cho cánh đàn ông vừa được BV Bình Dân (TP HCM) “trình làng” là triển khai kỹ thuật chuyên sâu sinh thiết tuyến t.iền liệt qua hướng dẫn siêu âm kết hợp hình ảnh MRI (MRI fusion biopsy). Đây là kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới lần đầu tiên triển khai tại BV Bình Dân cũng như tại Việt Nam, giúp phát hiện sớm ung thư tuyến t.iền liệt, bệnh lý ác tính thường gặp nhất của hệ tiết niệu – s.inh d.ục ở nam giới sau t.uổi 50.
Theo TS-BS Trần Vĩnh Hưng, Giám đốc BV Bình Dân, tại Việt Nam, đa số người bệnh ung thư tuyến t.iền liệt đến khám ở giai đoạn muộn, đã xâm lấn hoặc di căn xa, không còn chỉ định điều trị triệt để. Trong khi đó, nếu phát hiện ung thư còn ở giai đoạn khu trú, có tới 85% người bệnh sống đến 10 năm. Vì vậy, việc chẩn đoán sớm ung thư tuyến t.iền liệt là cực kỳ quan trọng trong chiến lược điều trị cho người bệnh.
Việc ứng dụng MRI fusion biopsy nhằm tăng độ chính xác, tăng khả năng phát hiện sớm ung thư tuyến t.iền liệt với sự xâm lấn tối thiểu trong điều trị và chẩn đoán ung thư tuyến t.iền liệt; định hướng cho BS dùng kim sinh thiết lấy chính xác mẫu mô bất thường ở tuyến t.iền liệt; giảm thiểu nguy cơ sót mẫu bệnh, c.hảy m.áu, n.hiễm t.rùng. Việc thực hiện MRI tuyến t.iền liệt trước khi sinh thiết cũng giúp BS có đ.ánh giá, cân nhắc trước khi tiến hành sinh thiết (thông qua thang điểm PI-RADS và dấu hiệu lâm sàng).
Bớt nỗi lo tai biến chạy thận
Với những người phải chạy thận nhân tạo (CTNT), việc này là “cực hình” trong đời sống và luôn đối mặt nguy cơ tai biến y khoa. Sự cố 8 người c.hết khi CTNT tại tỉnh Hòa Bình là bài học đắt giá cho ngành y tế Việt Nam. Việc giảm thiểu nguy cơ này là bước đột phá hiện nay.
Tại BV Chợ Rẫy (TP HCM), BS Nguyễn Tri Thức, Giám đốc BV, cho hay sau nhiều năm nỗ lực, thành quả này của BV đã được ghi nhận khi mới đây, Khoa CTNT đã được Tổ chức Chứng nhận quốc tế TNV (Anh quốc) trao chứng nhận tiêu chuẩn ISO 9001:2015. Đây là tiêu chuẩn về hệ thống quản lý chất lượng quốc tế đang được ứng dụng cho hơn 1 triệu tổ chức tại 178 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tại Việt Nam, ít BV hạng đặc biệt có CTNT nào đạt chứng nhận này.
Theo BS chuyên khoa II Nguyễn Minh Tuấn, Trưởng Khoa CTNT BV Chợ Rẫy, với 74 máy, trung bình mỗi ngày nơi đây thực hiện chạy thận định kỳ cho khoảng 400 bệnh nhân, chưa kể các trường hợp cấp cứu ở những bệnh lý cần lọc m.áu.
“Với việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, người bệnh tại BV Chợ Rẫy sẽ được chăm sóc trong môi trường an toàn, thân thiện, được sử dụng các dịch vụ y tế hiện đại theo công nghệ mới, giảm thiểu sai sót nhờ các quy trình và hướng dẫn cụ thể góp phần cải thiện tình trạng quá tải nhưng vẫn nâng cao được chất lượng khám chữa bệnh. Trong tương lai, chúng tôi sẽ tiếp tục nhân rộng tiêu chuẩn này cho các khoa, phòng khác, phù hợp với xu thế hội nhập” – BS Nguyễn Tri Thức nhấn mạnh.
Bài và ảnh: NGUYỄN THẠNH
Theo Người lao động