Theo các nhà khoa học Úc, khi được tiêm vào não, hydrogel chứa các tế bào gốc do họ bào chế tự lắp ráp để tạo thành một mạng tổng hợp tương tự như mô não nơi các tế bào có thể phát triển, mang lại hy vọng mới cho những người bị chấn thương não, bệnh parkinson và bệnh nhân đột quỵ.
Hydrogel có thể giúp sửa chữa hiệu quả mô não sau chấn thương trong trường hợp bị bệnh Parkinson và sau đột quỵ – Ảnh : Pixabay
Theo anu.edu.au, các nhà khoa học ở Đại học quốc gia Úc và Đại học Deakin đã bào chế được một loại hydrogel giúp tăng cường điều trị tế bào gốc nhắm mục tiêu và tái tạo mô não bị tổn thương. Cụ thể, hydrogel có thể giúp sửa chữa hiệu quả mô não sau chấn thương trong trường hợp bị bệnh Parkinson và sau đột quỵ.
Hydrogel, bao gồm các tế bào gốc và được kết hợp với nhau chủ yếu bằng nước, có thể thay thế các phương pháp điều trị hiện tại kém hiệu quả. Hydrogel hoạt động như một thùng chứa các tế bào. Nhờ vào nền gel nên có thể dễ dàng đưa các tế bào gốc đến các khu vực bị tổn thương một cách hiệu quả.
Hiện nay, việc ghép tế bào gốc vẫn được thực hiện. Nhưng theo nhà nghiên cứu David Nisbet ở Đại học quốc gia Úc, vẫn tồn tại một số vấn đề lớn mà công nghệ cấy ghép tế bào gặp phải. Thách thức lớn nhất là số lượng tế bào thay thế sẽ c.hết sau khi chúng được đưa vào não. Hydrogel giúp khắc phục nhược điểm này.
Hydrogel không chỉ bảo vệ các tế bào khỏi viêm trong mô bị tổn thương, mà khi đã vào trong não, còn tạo ra một môi trường lý tưởng cho sự sống sót và phát triển của tế bào. Môi trường này chủ yếu là giống mô não. Theo thời gian, các tế bào bắt đầu tích hợp vào các cấu trúc não, khôi phục hoạt động của cả hệ thống.
“Hydrogel của chúng tôi bảo vệ các tế bào được cấy ghép khỏi viêm trong não bị tổn thương. Các tế bào sau đó bắt đầu tích hợp với mạch của não rồi sửa chữa và phục hồi chức năng” – David Nisbet nhấn mạnh.
Vũ Trung Hương
Theo motthegioi
Ăn nhiều chất xơ giúp giảm nguy cơ t.iền sản giật
Chế độ ăn lành mạnh với nhiều chất xơ thường rất tốt cho sức khỏe. Lợi ích của nó còn đặc biệt quan trọng với thai phụ, giúp tăng cường sức khỏe mẹ và bé, giảm nguy cơ bị t.iền sản giật.
Ăn nhiều chất xơ có thể giúp giảm nguy cơ t.iền sản giật ở thai phụ – Shutterstock
Các nhà khoa học đã nghiên cứu vai trò của vi khuẩn đường ruột đến sức khỏe thai kỳ. Họ đã có những phát hiện thú vị, theo MSN.
Theo đó, nhóm nghiên cứu nhận thấy ở con người, nồng độ acetate giảm có liên quan đến t.iền sản giật ở thai phụ. Nồng độ này sẽ giảm khi khuẩn đường ruột phân giải chất xơ.
Nghiên cứu do các nhà khoa học Úc thực hiện. Họ đến từ nhiều trường đại học danh của tiếng nước này như Đại học Sydney, Đại học Deakin, Đại học Monash, Đại học James Cook và Đại học Quốc gia Úc.
“Vi khuẩn đường ruột và chế độ ăn của người mẹ rất quan trọng, giúp tăng cường sức khỏe thai kỳ”, giáo sư Ralph Nanan, một trong những tác giả chính của nghiên cứu, cho biết.
Để giảm nguy cơ t.iền sản giật, thai phụ nên có chế độ ăn lành mạnh với ăn nhiều rau củ, trái cây và các loại đậu. Tuy nhiên, ăn thực vật nhiều là tốt nhưng không nên dựa hoàn toàn vào thực vật mà bỏ qua các loại thịt cá bổ dưỡng khác, các chuyên gia khuyến cáo.
T.iền sản giật xảy ra ở khoảng 10% thai phụ. Các triệu chứng điển hình gồm huyết áp tăng và nồng độ protein trong nước tiểu cao.
Một số bằng chứng khoa học cũng cho thấy t.iền sản giật có thể cản trở sự phát triển của hệ miễn dịch ở thai nhi trong bụng mẹ, làm tăng nguy cơ bị di ứng và bệnh tự miễn khi trẻ chào đời.
Thai nhi bị t.iền sản giật trong thai kỳ thường có tuyến ức nhỏ hơn nhiều so với trẻ bình thường. Tuyến ức lại có vai trò quan trọng giúp tạo ra hệ miễn dịch, theo Daily Mail.
Theo Thanh niên