Màng bọc thực phẩm là món đồ được sử dụng rộng rãi và thường xuyên tại nhiều gia đình. Tuy nhiên, nếu không sử dụng đúng cách, màng bọc thực phẩm sẽ trở thành “kẻ s.át n.hân” đ.ầu đ.ộc cả gia đình bạn.
Ảnh minh họa: Internet
Theo TS. Phạm Đình Hải (Khoa Công nghệ Hóa học, Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh) khẳng định: Hiện nay, màng bọc thực phẩm được làm từ 2 nguyên liệu chính là PVC và PE. Với màng PVC, nếu sử dụng không đúng cách, chẳng hạn như là sử dụng ở nhiệt độ cao (bọc thức ăn nóng, cho vào lò vi sóng quay) nó sẽ giải phóng chất clo hoặc các phụ gia ở trong PVC. Dùng lâu ngày có thể gây nhiều nguy hại cho sức khỏe con người như rối loạn nội tiết, suy tim, gan, thận, thậm chí là ung thư. Trong khi đó, màng PE an toàn hơn vì nó chứa ít chất phụ gia gây hại hơn.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã cho thấy có tới 50% thành phần màng bọc là chất hóa dẻo có phụ gia. Vì bản thân nhựa PVC, PE không thể dẻo như những màng bọc đang được quảng cáo mà cần có chất hóa dẻo.
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại chất hóa dẻo như DOP, CD… Những chất này đều bị cảnh báo là độc hại với sức khỏe con người. Vì vậy, để giảm bớt những nguy hại khi sử dụng màng bọc thực phẩm, các chuyên gia khuyên người dùng cần lưu ý những sai lầm dưới đây tránh mắc sai lầm gây ảnh hưởng sức khỏe.
Ảnh minh họa: Internet
Dùng màng bọc thực phẩm cho vào lò vi sóng
Hâm nóng thức ăn khi còn màng bọc thực phẩm trong lò vi sóng là một sai lầm tai hại. Bởi màng bọc thực phẩm có thể chứa các chất hóa học như Phthalates và DEHA khi gặp nhiệt độ cao sẽ khiến chúng tan chảy và biến thành chất gây ung thư vô cùng nguy hiểm.
Bọc thực phẩm nhiều dầu mỡ
Không nên dùng màng bọc thực phẩm bọc đồ ăn chín, đồ ăn nóng và những thực phẩm chứa dầu mỡ vì sau khi tiếp xúc với những thực phẩm này, thành phần hóa học chứa trong màng bọc sẽ dễ dàng phát huy, thâm nhập vào thực phẩm, gây ra nhiều tác hại cho sức khỏe.
Ngoài ra, không dùng bọc những thực phẩm ở môi trường acid, kiềm hoặc nhiệt độ cao. Các chất độc hại này thôi nhiễm vào thực phẩm sẽ tác động đến hệ thống nội tiết làm phát triển sớm ở t.rẻ e.m gái và ảnh hưởng đến sinh sản ở t.rẻ e.m.
Bọc sát vào thực phẩm có thể bị thôi nhiễm
Dùng màng bọc thực phẩm sát vào đồ ăn rất dễ bị thôi nhiễm những chất độc hại gây ra tác hại khôn lường cho sức khỏe. Vì thế, nên để thực phẩm trong hộp thủy tinh cao rồi mới bọc bằng màng thực phẩm. Ngoài ra, không dùng bọc những của quả như cà rốt, dưa chuột, đậu đũa vì sẽ khiến hàm lượng vitamin C của những củ, quả này giảm đi nhiều.
Ảnh minh họa: Internet
Không dùng khi có mùi lạ
Sau khi mua màng bọc thực phẩm về sử dụng cần bảo quản màng bọc ở nơi có nhiệt độ trung bình. Nếu bảo quản ở những nơi có nhiệt độ cao hoặc quá thấp dễ làm màng bọc biến chất và sinh độc tố. Đặc biệt, không sử dụng màng bọc có dấu hiệu nấm mốc, bị sun, có mùi lạ. Nếu vẫn cố tình sử dụng sẽ dễ gây ngộ độc vì mang bọc thực phẩm kém chất lượng.
Theo Cục An toàn thực phẩm – Bộ Y tế, trên thị trường hiện nay có nhiều loại màng bọc thực phẩm với các chất liệu nhựa chủ yếu từ PVC và PE. Dấu hiệu chủ yếu để phân biệt một số loại màng bọc thực phẩm từ các vật liệu như sau:
Màng PVC: có màu trắng ngà/hoặc vàng nhạt và ít dai khi kéo dãn; sờ có cảm giác dính tay, khó tách các lớp màng bọc khi chúng tiếp xúc trực tiếp với nhau; khó cháy, chỉ cháy khi đốt trực tiếp bằng lửa và có mùi hắc.
Màng PE: có màu trắng, trong suốt, dai khi kéo dãn; khi sờ và sản phẩm ít dính tay, dễ dàng tách các lớp màng bọc khi chúng tiếp xúc trực tiếp với nhau; dễ bị đốt cháy bằng lửa và cháy rất nhanh, không tắt và hầu như không tạo ra mùi khi cháy.
Màng bọc PE dùng cho thức ăn đã qua sơ chế. Màng bọc PVC bảo quản thực phẩm chưa qua chế biến, không dùng màng nhôm bọc cho thực phẩm giàu axít.
Khi bảo quản đồ ăn cần bọc cách thực phẩm ít nhất là 2,5 cm. Bỏ màng bọc ra khi hâm nóng. Bảo quản màng bọc ở nhiệt độ phòng. Không dùng những màng bọc đã bị mốc, rúm, để quá lâu.
Khi mua màng bọc thực phẩm cũng nên để ý tới nguồn gốc xuất xứ, nhãn hàng có uy tín, tránh những màng bọc kém chất lượng, trôi nổi ngoài thị trường.
QUẢNG AN (TỔNG HỢP)
Theo T.iền phong
Những nguyên nhân gây béo phì
Béo phì chính là sự tích tụ quá nhiều mỡ trong cơ thể. Ngoại trừ những người có bắp thịt nở nang, còn lại tất cả những người có số cân nặng cơ thể vượt quá 20% số cân tiêu chuẩn phù hợp với chiều cao đều được coi là béo phì.
“Đại dịch” của thiên niên kỷ mới
Cũng như đái tháo đường týp II, hiện nay với nhiều công trình nghiên cứu các nhà khoa học cho rằng: nếu không ngăn chặn kịp thời, bệnh béo phì sẽ trở thành đại dịch của thiên niên kỷ mới. Và kéo theo nó là rất nhiều bệnh khác như: cao huyết áp, suy tim, đái tháo đường, ung thư. Cho đến nay, thực sự bệnh béo phì đã làm giảm t.uổi thọ và chất lượng cuộc sống của con người.
Tại Việt Nam, cho đến nay chưa có số thống kê nào mang tính chất toàn thể trong dân chúng về bệnh béo phì. Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, số lượng người bị bệnh béo phì cũng rất nhiều. Ngay cả người viết bài này cũng có đến 4 đứa cháu bị bệnh béo phì, có đứa mới 14 t.uổi đã nặng gần 90kg, khi đi vào căn nhà nhỏ của người cháu, chỉ thấy toàn là người không thấy đồ đạc đâu cả.
Ở Hoa kỳ, có đến 24% số nam giới và 27% nữ giới bị bệnh béo phì và có sự khác biệt rất lớn về số lượng người bị bệnh này tùy theo t.uổi tác, địa vị xã hội và chủng tộc. Ở lứa t.uổi trên 50, số người bị bệnh cao gấp 2 lần so với những người trẻ t.uổi dưới 20, những phụ nữ có địa vị xã hội thấp, phải làm những công việc nặng nhọc dễ bị béo phì gấp hai lần so với những phụ nữ có địa vị xã hội và kinh tế cao hơn.
Nguyên nhân
Cho đến ngày hôm nay, nguyên nhân thực sự của bệnh béo phì vẫn chưa được biết đến. Có công trình nghiên cứu cho rằng bệnh có tính di truyền, hay những biến đổi trong gen, tuy nhiên tất cả mới chỉ là giả thuyết. Tuy nhiên cơ chế gây béo phì thì khá đơn giản: đó là sự mất cân bằng giữa lượng chất đưa vào và nhu cầu thực sự củq cơ thể. Có ít nhất 7 yếu tố gây ra bệnh béo phì, các yếu tố này tác động qua lại với nhau để gây nên bệnh:
Yếu tố di truyền:
Những nghiên cứu gần đây trên những người sinh đôi, sinh ba hay trên con nuôi của một số gia đình cho thấy: di truyền là một yếu tố rất quan trọng đưa đến bệnh béo phì. Sự tham dự về phần di truyền của bệnh tương ứng với sự di truyền đa gen, có nghĩa là có nhiều gen cùng tham gia.
Di truyền là một yếu tố rất quan trọng đưa đến bệnh béo phì
Yếu tố xã hội:
Là những yếu tố đặc biệt quan trọng gây nên bệnh, nhất là ở phụ nữ. Trong các xã hội phát triển, như xã hội của các nước phương Tây thì bệnh béo phì xảy ra rất nhiều ở những phụ nữ lao động chân tay và có cuộc sống kinh tế thấp hơn là ở những phụ nữ lao động trí óc và có đời sống kinh tế ở mức cao. Thoạt đầu, nghe tưởng như là nghịch lý, nhưng thật sự lại là như vậy.
Các rối loạn nội tiết và chuyển hóa:
Những bệnh nhân bị rối loạn nội tiết và chuyển hóa: u vỏ thượng thận, mãn kinh, rối loạn chuyển hóa đường và lipid… sẽ kích thích tạo mô mỡ. Sự hình thành nhiều mô mỡ trong cơ thể khiến cho sự gia tăng nhu cầu về chất đường, kéo theo gia tăng nhu cầu về insulin, sự gia tăng hai chất này lại kích thích tạo mô mỡ và hình thành một vòng xoắn bệnh lý luẩn quẩn rất khó điều trị.
Việc ngăn ngừa bệnh béo phì ngay từ khi còn nhỏ là rất quan trọng
Yếu tố tâm lý:
Trước đây và ngay cả hiện nay nữa, yếu tố tâm lý cũng đã được khá nhiều người gán cho một tầm quan trọng lớn lao trong việc gây ra bệnh béo phì và chúng ta thường cho rằng những người béo phì là những người có rối loạn về tâm lý và tình cảm. Tuy nhiên, trong thực tế những người không bị béo phì cũng bị rối loạn tâm lý và tình cảm.
Những rối loạn tâm lý và tình cảm của người bị béo phì ngày nay thường được xem là hậu quả của những thành kiến và kỳ thị đối với họ hơn là nguyên nhân của bệnh. Có hai hội chứng rối loạn về tâm thần có thể gây nên bệnh béo phì, đó là: hội chứng ăn uống vô độ và hội chứng ăn đêm, bao gồm biếng ăn vào buổi sáng nhưng lại ăn rất nhiều về ban đêm đi kèm với mất ngủ. Cả hai đều là những yếu tố rất quan trọng gây rối loạn giữa lượng thức ăn đưa vào cơ thể và năng lượng tiêu hao trong quá trình hoạt động, gây ra tích tụ mỡ và tăng trọng
Các yếu tố tăng trưởng của cơ thể:
Sự gia tăng khối lượng cơ thể trong bệnh béo phì có thể do sự gia tăng kích thước của tế bào mỡ, gọi là béo phì phì đại hoặc sự gia tăng số lượng của tế bào mỡ, còn gọi là béo phì tăng sản hoặc phối hợp cả hai. Béo phì xuất hiện ở t.uổi trưởng thành thường là béo phì phì đại và việc giảm cân nặng ở những bệnh nhân này có vẻ dễ hơn chỉ cần tuân thủ nghiêm ngặt những quy định về lượng cũng như chất của thức ăn đưa vào cơ thể, kết hợp với luyện tập thân thể, và kết hợp sử dụng một số thuốc là được. Trong khi đó, béo phì xuất hiện ở t.uổi thiếu niên thường là béo phì theo kiểu tăng sản hoặc phối hợp cả hai và việc cố gắng giảm cân thật sự rất khó khăn, có nhiều trường hợp gần như là không tưởng. Do đó việc ngăn ngừa bệnh béo phì ngay từ khi còn nhỏ là rất quan trọng. Điều này trái ngược với tâm lý chuộng những đ.ứa t.rẻ béo tốt mà các bậc cha mẹ trong thời đại hiện nay mong muốn.
Mỹ: 24% nam giới và 27% nữ giới bị bệnh béo phì
Hoạt động thể lực:
Việc giảm hoạt động thể lực một cách rõ rệt ở một xã hội có nền kinh tế phát triển và tiện nghi như ngày hôm nay cũng là một yếu tố rất đáng kể gây nên bệnh béo phì. Ở những người này cán cân về năng lượng sẽ bị thiên lệch cung nhiều hơn cầu và con đường dẫn đến béo phì rất rộng mở. Ngay tại nước Mỹ, mặc dù mỗi người dân đã cố gắng giảm bớt 10% số calorie thức ăn đưa vào cơ thể nhưng tỉ lệ béo phì vẫn tăng lên gấp hai lần so với những năm đầu thế kỷ.
Các tổn thương trên não bộ:
Các tổn thương trên bộ não của bệnh nhân, đặc biệt là ở vùng dưới đồi có thể gay ra bệnh béo phì. Mặc dù nay là một nguyên nhân rất hiếm gặp.
Các dấu hiệu và biến chứng:
Dấu hiệu dễ nhận thấy nhất của béo phì gia tăng trọng lượng cơ thể và khối lượng mỡ tích tụ tại một số phần đặc biệt của cơ thể như: bụng, đùi, eo, ngay cả ở ngực nữa.
Sự tích tụ quá nhiều mỡ ở lồng ngực, cơ hoành và ổ bụng sẽ gây nên hiện tượng khó thở cho bệnh nhân. Trong trường hợp béo phì nặng, tình trạng khó thở có thể gây nên hội chứng Picwick với những đợt ngưng thở vào ban đêm có thể đưa đến t.ử v.ong. Béo phì còn dẫn đến những rối loạn về chỉnh hình, như: đau và thoái hóa khớp gối, đau lưng và thoái hóa cột sống… Một số phụ nữ có thể bị rối loạn k.inh n.guyệt hoặc không có kinh. Một số khác rất dễ bị cao huyết áp, thiếu m.áu cơ tim, đái tháo đường, ung thư và rất nhiều bệnh khác làm giảm đi chất lượng của cuộc sống và rút ngắn t.uổi thọ của con người.
Ngoài ra khi bị béo phì áp lực của cơ thể sẽ tăng lên nhất là khi đứng làm cho việc m.áu trở về tim bằng đường tĩnh mạch trở nên rất khó khăn. Áp lực trong lòng tĩnh mạch sẽ tăng lên, thành tĩnh mạch cả tĩnh mạch nông và tĩnh mạch sâu bị dãn lớn và khi đó sẽ làm cho van tĩnh mạch đóng không kín và m.áu sẽ trào ngược về phía dưới.
Từ đó sẽ gây ra tình trạng suy tĩnh mạch làm chân sưng phù, nặng nề, chuột rút, đau và tê chân, nặng hơn nữa là tình trạng dãn lớn các tĩnh mạch ngoại vi và có thể đưa đến tình trạng hình thành các cục m.áu đông trong lòng tĩnh mạch.
PGS.TS. NGUYỄN HOÀI NAM
Theo SK&ĐS