Cứ 100.000 nam giới Việt Nam thì có 39 người mắc ung thư gan, đứng thứ 3 thế giới chỉ sau Mông Cổ và Ai Cập. Đây cũng là loại ung thư phổ biến nhất ghi nhận được tại Việt Nam với 25.335 ca mới mắc và 25.404 ca t.ử v.ong.
GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K kêu gọi nam giới uống ít rượu để ngăn ngừa loại ung thư gặp rất phổ biến ở Việt Nam, là ung thư gan.
Theo GS Thuấn, tết Nguyên đán có lẽ là thời điểm người Việt Nam sử dụng rượu, bia nhiều nhất trong năm. Từ trước Tết, các cơ quan, đoàn thể nhộn nhịp tổ chức ăn uống tổng kết cuối năm. Ra Tết thì là họ hàng, gia đình, bạn bè cũng gặp mặt nâng chén rượu chúc mừng.
Theo thống kê, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia có tốc độ tiêu thụ rượu, bia tăng nhanh nhất thế giới. Năm 2018, ước tính mỗi người Việt trên 15 t.uổi tiêu thụ 8,3 lít cồn nguyên chất, nhiều hơn người Trung Quốc và gấp 4 lần người Singapore.
Trong khi đó, lạm dụng rượu, bia không chỉ gây ra tai nạn giao thông, các hành vi thiếu chuẩn mực trong xã hội mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến viêm gan, xơ gan, thậm chí là ung thư gan.
GS Thuấn thông tin thêm, theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) để uống bia rượu an toàn, việc uống bia rượu phải dưới ngưỡng cảnh báo nguy hiểm.
Theo đó, nam giới không nên uống quá hai đơn vị cồn, nữ giới không quá một đơn vị cồn mỗi ngày và uống dưới 5 ngày/tuần.
Một đơn vị cồn có thể hiểu tương đương 10 gam cồn nguyên chất, khoảng 3/4 lon bia 330ml (5%), một ly rượu vang 100 ml (13,5%) hay một chén rượu mạnh 30 ml (40%).
Điều này có nghĩa, một lần uống rượu không vượt quá 3/4 một lon bia 330ml, hay một chén rượu mạnh, một ly rượu vang 100ml mới không gây tác hại xấu cho sức khoẻ.
Nhưng đây là điều rất khó với những người đang ngồi trên bàn nhậu, lượng bia, rượu mỗi người uống vào có thể gấp 5, 10 lần, thậm chí 20 lần so với khuyến cáo.
Trong khi đó, bia rượu là mối nguy tiềm ẩn với gan, là nguyên nhân quan trọng gây xơ gan do bia rượu, dẫn đến ung thư gan.
Tại Việt Nam, theo thống kê năm 2018, cứ 100.000 nam giới Việt Nam thì có 39 người mắc ung thư gan, đứng thứ 3 thế giới chỉ sau Mông Cổ và Ai Cập. Đây cũng là loại ung thư phổ biến nhất ghi nhận được tại Việt Nam với 25.335 ca mới mắc và 25.404 ca t.ử v.ong.
Để phòng ngừa ung thư và các bệnh lý về gan, chúng ta nên tạo thói quen khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần trong đó có xét nghiệm m.áu, siêu âm, đặc biệt ở những người có nguy cơ cao như nhiễm vi-rút viêm gan B, viêm gan C hay xơ gan.
Đồng thời, tiêm phòng đầy đủ vắc-xin phòng viêm gan B, không tự ý dùng thuốc ngoài chỉ định của bác sĩ và tránh tiếp xúc với các hóa chất độc hại.
“Quan trọng nhất vẫn là giữ cho mình chế độ ăn uống khoa học, tập thể dục đều đặn, từ bỏ hoặc hạn chế rượu, bia, t.huốc l.á, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới. Hãy mạnh dạn từ chối rượu, bia ngay từ hôm nay vì tương lai của mình và gia đình.”, GS Thuấn khuyến cáo.
Đặc biệt cần lưu ý, khi có cảm giác chán ăn, chướng bụng, vàng da, củng mạc mắt vàng, hay nặng hơn là thấy mệt mỏi, buồn nôn, sụt cân, đau tức hạ sườn phải, bạn nên tìm đến các cơ sở y tế để được khám và tư vấn.
Hồng Hải
Theo dantri
Căn bệnh ung thư nào có tỷ lệ mắc mới lớn nhất tại Việt Nam?
Tại Việt Nam, sau nhiều năm đứng ở vị trí thứ 2, ung thư gan đã vượt qua ung thư phổi, vươn lên vị trí số một về tỷ lệ mắc mới.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2018, ung thư gan là một trong 5 loại ung thư gây t.ử v.ong hàng đầu với gần 800.000 ca tử mỗi năm.
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc ung thư gan tăng rất nhanh trong vòng 20 năm qua. Năm 2000, số ca mắc mới ung thư gan tại nước ta chỉ có 5.700 ca, sau đó tăng lên 9.400 ca năm 2010.
Mỗi năm có khoảng 25.000 người Việt t.ử v.ong vì ung thư gan
GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K (Hà Nội), cho biết theo Globocan 2018, tại Việt Nam, ung thư gan là bệnh thường gặp nhất ở hai giới với 25.335 trường hợp mắc mới, trong đó riêng nam giới chiếm hơn 19.500 ca. Đáng nói là số ca t.ử v.ong do ung thư gan tại nước ta gần tương đương với số ca mắc mới.
Tại Việt Nam, sau nhiều năm đứng ở vị trí thứ 2, hiện ung thư gan đã vượt qua ung thư phổi, vươn lên vị trí số một về tỷ lệ mắc mới.
Trung bình cứ 100.000 người Việt thì có 23,2 người bị ung thư gan. Với tỷ lệ này, Việt Nam xếp vị trí thứ 4/185 quốc gia, vùng lãnh thổ, chỉ đứng sau Mông Cổ (tỷ lệ 93,7/100.000 dân), Ai Cập (32,2), và Gambia (23,9). Vị trí thứ 5 và thứ 6 lần lượt thuộc về Lào (22,4) và Campuchia (21,8), vị trí thứ 8 thuộc về Thái Lan (21).
Tỷ lệ mắc ung thư gan tại Việt Nam hiện đã dẫn đầu so với ung thư phổi, xếp vị trí thứ 4/185 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Lý giải nguyên nhân này, GS.TS Trần Văn Thuấn cho biết tỷ lệ t.ử v.ong ung thư gan lớn do có tới 80-90% bệnh nhân đến viện khi đã ở giai đoạn muộn, lúc này các biện pháp can thiệp, điều trị rất hạn chế. Trong khi nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm, tiên lượng điều trị rất tốt.
TS Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Ngoại gan mật tụy, Bệnh viện K, cho biết căn bệnh này gồm có ung thư gan nguyên phát và ung thư gan thứ phát. Ung thư gan nguyên phát phát triển từ các tế bào trong gan, ung thư gan thứ phát do các tế bào ung thư ở các bộ phận khác của cơ thể và đi vào gan gây ra các khối u di căn.
Nguyên nhân gây ung thư gan
Theo các chuyên gia của Bệnh viện K, 80% bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) có biểu hiện của xơ gan, do đó các yếu tố nguy cơ của xơ gan cũng được xem là yếu tố nguy cơ của HCC.
Bên cạnh đó, việc nhiễm virus viêm gan B làm tăng nguy cơ phát triển ung thư biểu mô tế bào gan 100 lần. Khoảng 80% các trường hợp mắc ung thư biểu mô tế bào gan trên thế giới và khoảng 70% ở Việt Nam là do virus viêm gan B gây ra. Mỗi năm có khoảng 0,5% những người nhiễm virus viêm gan B mạn tính sẽ phát triển thành ung thư biểu mô tế bào gan.
Nguyên nhân tiếp theo gây ung thư gan là virus viêm gan C, chiếm khoảng 30-50% các trường hợp mắc ung thư biểu mô tế bào gan ở Mỹ, và khoảng 7% các trường hợp mắc ung thư biểu mô tế bào gan ở Việt Nam.
Tiếp đến việc sử dụng rượu bia thường xuyên là nguyên nhân quan trọng của xơ gan. Xơ gan do rượu chiếm khoảng 15% các trường hợp mắc ung thư biểu mô tế bào gan.
Ngoài ra, bệnh thừa sắt, bệnh di truyền tyrosin huyết và bệnh viêm gan mạn tự miễn thể hoạt động là nguyên nhân gây xơ gan và làm tăng đáng kể nguy cơ phát triển ung thư biểu mô tế bào gan.
Hệ thống đốt nhiệt u gan bằng sóng Viba tại Bệnh viện K. Ảnh: Sức Khỏe Đời Sống.
Điều trị thế nào?
Theo GS.TS Trần Văn Thuấn, để điều trị ung thư gan, ngoài các phương pháp truyền thống như phẫu thuật, xạ trị, hoá trị, dùng thuốc nhắm trúng đích, hiện có thêm các phương pháp nút mạch, đốt sóng cao tần, đốt u bằng vi sóng, laser, điện đông, tiêm cồn tuyệt đối qua da, ghép gan…
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh việc lựa chọn phương pháp điều trị tùy thuộc vào vị trí, kích thước, giai đoạn của bệnh cũng như các bệnh lý kèm theo cũng có vai trò trong việc lựa chọn phương pháp điều trị. Trong các phương pháp điều trị ung thư biểu mô tế bào gan, phẫu thuật là ưu tiên lựa chọn hàng đầu vì giúp lấy bỏ được khối u.
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật cắt gan, các phương tiện hỗ trợ cho cuộc mổ, các phương tiện hồi sức sau mổ,… chỉ định cắt gan hiện nay đang ngày càng được mở rộng, đem lại cơ hội sống cao hơn cho người bệnh.
Ngoài ra, ghép gan là phương pháp mang lại hiệu quả cao đối với những bệnh nhân mắc ung thư gan. Một số bệnh viện như Việt Đức, Chợ Rẫy đã thực hiện thường quy các ca ghép gan. Trong đó, Bệnh viện Việt Đức ghép được hơn 62 ca (chiếm 50% các ca ghép gan cả nước). Tuy nhiên, do chi phí ghép gan khá cao (khoảng 1,5 tỷ đồng/ca ghép) và nguồn gan ghép rất khan hiếm của nguồn tạng, số lượng gan ghép chỉ đáp ứng khoảng 10-15% nhu cầu.
Cùng với việc điều trị các khối u gan bằng sóng cao tần (RFA), từ tháng 3/2019, Bệnh viện K đã đưa hệ thống đốt nhiệt u gan bằng sóng Viba (MWA) vào hoạt động làm tăng thêm sự lựa chọn cho người bệnh.
Việc sử dụng sóng điện từ trong phổ năng lượng vi sóng (300 MHz đến 300 GHz) có thể tạo hiệu ứng đốt cháy mô. Đây là phương pháp an toàn cho người bệnh, xâm lấn tối thiểu, nhiệt độ vùng đốt cao, ít bị ảnh hưởng bởi hiện tượng tản nhiệt, không hóa than quanh kim, không cần miếng đối đất, không gây nhiễu màn hình siêu âm, kích thước vùng đốt có thể tiên đoán,… nên thời gian hồi phục của bệnh nhân nhanh.
Do đó, phương pháp này có thể áp dụng trên phòng mổ, phòng thủ thuật cho những bệnh nhân có khối u gan có đường kính lớn nhất tới 6 cm hoặc 3 khối u có đường kính dưới 3 cm, hoặc các tổn thương gần mạch m.áu…
Theo Zing