Hậu quả do thiếu vitamin ở trẻ nhỏ

Thiếu vitamin ở t.rẻ e.m trong những tháng đầu đời có liên quan đến chế độ ăn của bà mẹ trong thời kỳ có thai và cho con bú.

Thiếu vitamin ở t.rẻ e.m trong những tháng đầu đời có liên quan đến chế độ ăn của bà mẹ trong thời kỳ có thai và cho con bú. Hậu quả của thiếu vitamin ở trẻ nhỏ thường ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, chậm phát triển tâm vận động, suy giảm miễn dịch, nguy cơ gây thấp còi và hay mắc các bệnh nhiễm khuẩn. Thiếu vitamin ở trẻ nhỏ thường gặp là thiếu các vitamin tan trong chất béo (A, D, K).

Thiếu vitamin A. Vitamin A có vai trò quan trọng đối với thị giác, biệt hóa các tế bào biểu mô, thúc đẩy tăng trưởng và đáp ứng miễn dịch. Thiếu vitamin lâm sàng thường biểu hiện khô mắt dẫn đến mù lòa góp phần làm tăng tỉ lệ t.ử v.ong ở t.rẻ e.m. Hiện nay ở nước ta thiếu vitamin A lâm sàng có tổn thương mắt rất hiếm gặp nhưng thiếu vitamin A t.iền lâm sàng còn gặp ở bà mẹ và t.rẻ e.m.

Cần có chế độ ăn phong phú để cung cấp vitamin cho cơ thể.

Thiếu vitamin A t.iền lâm sàng có nghĩa là nồng độ vitamin A tại các mô trong cơ thể thấp nhưng chưa có biểu hiện tổn thương lâm sàng. Quáng gà là biểu hiện sớm của thiếu vitamin A được xếp vào loại thiếu vitamin A t.iền lâm sàng. Nồng độ vitamin trong sữa mẹ thấp (

Để dự phòng thiếu vitamin A chủ yếu là dinh dưỡng hợp lý và uống vitamin A liều cao.

Chế độ ăn cần có đủ vitamin A cho cả mẹ và con. Vitamin A có nhiều trong thức ăn nguồn động vật (gan, cá, trứng, sữa…) và beta caroten có trong thức ăn nguồn thực vật (rau xanh và củ quả có màu vàng đỏ…). Ăn thêm dầu mỡ để hấp thu vitamin A. Cho trẻ bú sớm ngay sau khi đẻ để trẻ bú được sữa non vì nồng độ vitamin A trong sữa mẹ cao nhất trong giai đoạn này.

Thiếu vitamin D. Vitamin D có vai trò quan trọng trong chuyển hóa và hấp thu canxi, photpho để cấu tạo khung xương.

Nguồn cung cấp vitamin D khoảng 80% là do cơ thể tổng hợp vitamin D từ chất t.iền vitamin D dưới da dưới tác động quang hóa của tia cực tím ánh nắng mặt trời, phần còn lại khoảng 20% được cung cấp từ thức ăn. Nhu cầu vitamin D ở t.rẻ e.m, phụ nữ có thai, phụ nữ cho con bú là 5mcg/ngày (200 đơn vị/ ngày) (VDD 2007).

Khi thiếu vitamin D sẽ làm giảm hấp thu canxi, photpho ở ruột, cơ thể phải huy động canxi ở xương vào m.áu gây rối loạn quá trình vôi hóa ở xương gây loãng xương, còi xương ở t.rẻ e.m.

Còi xương có thể xuất hiện sớm ngay trong thời kỳ bào thai do mẹ bị thiếu vitamin D, canxi trong thời kỳ mang thai và tập quán kiêng cữ giữ trẻ trong nhà ở những tháng đầu sau đẻ. Do vậy, ngay cả những trẻ được bú mẹ cũng dễ bị còi xương sớm vì nồng độ vitamin D trong sữa mẹ thấp.

Biểu hiện của còi xương sớm là trẻ trong tình trạng kích thích thần kinh cơ, ngủ hay giật mình, cơn khóc kéo dài, khàn tiếng. Thở rít do mềm sụn thanh quản – các cơ co thắt làm cho trẻ nôn, nấc cụt, hay són phân và nước tiểu. Ở xương có biến dạng hộp sọ, x.ương s.ọ mềm, ấn lõm (dấu hiệu nhuyễn sọ). Thóp rỗng, các đường rãnh khớp mở rộng, đầu dễ bị méo mó, đầu bẹt phía sau hoặc một bên do tư thế nằm. Trương lực cơ giảm, phosphaza kiềm trong m.áu tăng. Trẻ có thể bị co giật do hạ canxi m.áu.

Để dự phòng còi xương sớm thì trong thời gian mang thai và cho con bú bà mẹ nên tắm nắng bằng cách đi dạo ngoài trời đồng thời ăn uống đủ chất, tăng cường thực phẩm giàu vitamin D và canxi, cho trẻ bú mẹ ngay sau đẻ và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, từ 6 tháng trở đi (180 ngày) mới bắt đầu cho ăn bổ sung. Phòng ở của trẻ cần thoáng mát có nhiều ánh sáng. Cho trẻ tắm nắng ngay từ những tháng đầu sau đẻ bằng cách để hở hai cẳng chân cho da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời khoảng 15 phút/ngày vào buổi sáng. Đối với trẻ đẻ non, đẻ thấp cân (dưới 2.500g) thì từ tuần thứ 2 sau đẻ cho uống vitamin D 400 đơnvị/ ngày – uống liên tục trong năm đầu.

Thiếu vitamin K cần thiết cho quá trình đông m.áu, sự hấp thu vitamin K cần có mỡ, muối mật và dịch tụy. Vitamin K có nhiều trong các loại rau xanh như cải bắp, cải xoong, su hào, xà lách. Vi khuẩn đường ruột cũng có khả năng tổng hợp vitamin K. Nhu cầu vitamin K ở phụ nữ có thai và phụ nữ cho con bú là 51mcg/ngày. Trẻ dưới 6 tháng t.uổi là 6mcg/ngày, 6-11 tháng là 9mcg/ngày và 1-3 t.uổi là 13mcg/ngày.

Nguyên nhân thiếu vitamin K ở trẻ nhỏ là do vi khuẩn đường ruột chưa có khả năng tổng hợp đủ vitamin K, dự trữ thấp. Khi sinh và nồng độ vitamin K trong sữa mẹ thấp. Thiếu vitamin K gây xuất huyết não, màng não thường gặp ở trẻ từ 1 – 3 tháng t.uổi. Bệnh xuất hiện đột ngột, trẻ bỏ bú, khóc thét, da xanh, thiếu m.áu cấp tính, thóp căng phồng, co giật toàn thân hoặc cục bộ, lác mắt, sụp mi, giảm vận động nửa người, không đều, có cơn ngừng thở ngắn, hôn mê và dễ t.ử v.ong hoặc để lại di chứng thần kinh.

Để dự phòng thiếu vitamin K thì chế độ ăn của bà mẹ có thai và cho con bú cần có dầu mỡ, tăng cường thực phẩm giàu vitamin K. Cho trẻ bú mẹ bình thường. Tiêm phòng vitamin K cho cả mẹ và con. Tiêm bắp vitamin K1 5mg cho bà mẹ trước sinh 2 tuần và trẻ ngay sau sinh tiêm vitamin K1 1mg hoặc uống 2mg và có thể tiêm nhắc lại sau 2-4 tuần.

PGS. Đào Thị Ngọc Diễn

Theo SK&ĐS

Ăn bông cải xanh vào mùa này thì đúng chuẩn rồi nhưng có những lưu ý nếu không nắm rõ thì bạn sẽ thiệt thân

Súp lơ xanh hay còn gọi là bông cải xanh giàu dinh dưỡng nhưng cũng có những lưu ý nhất định mà trước khi chế biến ai cũng nên biết.

Nếu bạn đang cố gắng ăn lành mạnh hơn, các loại rau họ cải như bông cải xanh nên được ưu tiên hàng đầu trong danh sách thực phẩm. Nếu bạn hay con bạn không phải là người hâm mộ loại rau mang tên bông cải xanh thì hãy học cách kết hợp chúng vào chế độ ăn hàng ngày để ngon miệng và đủ dinh dưỡng hơn.

Theo Medicalnewstoday, ăn nhiều trái cây và rau quả từ lâu giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến lối sống. Nhiều nghiên cứu đề xuất nên tăng tiêu thụ thực phẩm thực vật như bông cải xanh vào chế độ ăn để giảm nguy cơ béo phì, tiểu đường và bệnh tim mạch… Chưa kể, nó có thể cho bạn một làn da và mái tóc khỏe mạnh, tăng năng lượng trong khi giúp giảm cân lành mạnh.

Theo Cơ sở dữ liệu dinh dưỡng quốc gia USDA, một chén bông cải xanh xắt nhỏ (khoảng 91 gram) chứa 31 calo, 0 gram chất béo, 6 gram carbohydrate (bao gồm 2 gram đường và 2 gram chất xơ) và 3 gram protein. Chỉ cần một chén bông cải xanh cung cấp hơn 100% nhu cầu hàng ngày của bạn về vitamin C và vitamin K và một phần vitamin A, folate và kali tốt.

Giàu dinh dưỡng là vậy nhưng không phải ai cũng biết tận dụng hết giá trị của bông cải xanh. Một số lưu ý nếu không nắm rõ khi chế biến, nấu nướng bông cải xanh có thể khiến bạn không thu được nguồn dinh dưỡng như lâu nay mình vẫn tưởng:

Luộc bông cải xanh trong nước như các loại rau bình thường khác

Giống như nhiều món ăn khác, nhiều người có suy nghĩ là rau thì có thể đem luộc và bông cải xanh không ngoại lệ. Bông cải xanh luộc ăn rất ngon, thanh mát. Nhưng chế biến bằng hình thức luộc có thể làm hao hụt rất nhiều lượng vitamin dồi dào trong loại thực phẩm này.

Bông cải xanh luộc ăn rất ngon, thanh mát tuy nhiên chế biến bằng hình thức luộc có thể làm hao hụt rất nhiều lượng vitamin dồi dào trong loại thực phẩm này.

Theo PGS.TS Trần Đình Toán (Viện trưởng Viện Dinh dưỡng lâm sàng), bông cải xanh khi đem luộc trong nước sôi, nhất là khi đun sôi quá lâu để rau chín nhừ. Như vậy sẽ dẫn đến tình trạng vitamin, khoáng chất bị hòa tan vào nước. Nước bay hơi gây ra tình trạng bay hơi chất dinh dưỡng. Do đó, luộc bông cải xanh để làm rau ăn không phải là giải pháp tối ưu cho loại thực phẩm này.

Giải pháp: Tốt nhất nếu bạn muốn ăn thanh đạm thì đem hấp sơ qua. Bạn cũng có thể chiên xào loại rau này để đảm bảo vitamin và khoáng chất hơn. Nhưng tuyệt đối không được chế biến ở dạng quá chín sẽ làm tổn thất đáng kể dinh dưỡng. Nếu bạn có thể ăn sống bông cải xanh thì cũng có thể ăn để thu được giá trị dinh dưỡng tốt hơn nhưng cần đảm bảo nguồn cung cấp.

Vứt bỏ hết lá bông cải xanh khi chế biến

Chúng ta thường cho rằng, ăn bông cải xanh là chỉ sử dụng phần bông, còn phần lá dính vào thì bỏ hết đi. Ít ai biết rằng, đây là thói quen hoàn toàn sai lầm. Theo Health, lá bông cải xanh có chứa hàm lượng beta-carotene rất dồi dào và đây là một chất chống oxy hóa. Ngoài ra trong lá còn chứa rất nhiều vitamin A và V.

Từ những lần tiếp theo khi chế biến bông cải xanh, chú ý tận dụng cả lá để hấp, xào… cùng bông cải xanh sẽ giúp bạn không lãng phí nguồn chất đáng quý này.

Giải pháp: Khi chế biến bông cải xanh, chú ý tận dụng cả lá để hấp, xào… Điều này sẽ giúp bạn không lãng phí nguồn chất đáng quý.

Vứt hết cuống bông cải xanh khi nấu nướng

Rất nhiều người quan niệm rằng, khi ăn bông cải xanh chỉ cần ăn những bông xinh xắn. Còn cuống chỉ là thứ bỏ đi, không đáng bận tâm. Tuy nhiên, giới chuyên gia dinh dưỡng nhận định đây là sai lầm cực nghiêm trọng. Bởi vì phần cuống là bộ phận chứa nhiều chất xơ hơn cả so với bông cải. Chưa kể, khi ăn phần cuống, bạn sẽ thấy vị ngọt dễ chịu. Đây là phần cực tốt dành cho người muốn giảm cân và kiểm soát cân nặng hiệu quả.

Giải pháp: Tận dụng cuống bông cải xanh trong mỗi lần nấu nướng, chế biến. Nên bóc vỏ cuống để món ăn thêm mềm và hấp dẫn hơn.

Rất nhiều người quan niệm rằng, khi ăn bông cải xanh chỉ cần chăm chăm vào những bông xinh xắn, còn cuống chỉ là thứ bỏ đi, không đáng bận tâm.

Ăn bông cải xanh khi uống thuốc làm loãng m.áu

Vitamin K được tìm thấy với hàm lượng lớn trong những loại thực phẩm như bông cải xanh. Nếu bạn sử dụng thuốc chứa warfarin làm loãng m.áu và trong chế độ ăn hôm ấy lại có bông cải xanh đi kèm thì vô cùng nguy hiểm. Nguyên nhân là hàm lượng vitamin K cao có thể làm bất hoạt warfarin, gây nguy cơ tăng đông m.áu nên cực nguy hiểm cho người bệnh.

Giải pháp: Khi dùng thuốc làm loãng m.áu tuyệt đối không ăn những loại thực phẩm như cải xoăn, rau diếp, bông cải xanh và đậu xanh…

Theo Helino

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *