Bác sĩ là người chăm lo cho sức khỏe, cứu sống bệnh nhân. Thế nhưng, họ đôi khi không thể tự bảo vệ sức khỏe của chính bản thân mình bởi những rủi ro trong nghề nghiệp.
Tháng 6 năm 2018, bác sỹ Nguyễn Văn Hiếu (29 t.uổi) đột ngột bị phơi nhiễm HIV sau 1 tình huống cấp cứu bất khả kháng. Khi ấy, anh Hiếu đang công tác tại Trung tâm Y tế huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, theo dự án đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về các vùng khó khăn của Bộ Y tế.
Bệnh nhân nhập viện cấp cứu trong tình trạng m.áu trào ra rất nhiều từ cổ tay sau khi cố gắng t.ự t.ử. Điều kiện thiếu thốn, không ngần ngại, anh Hiếu dùng tay chịt miệng vết thương, nhanh chóng đưa bệnh nhân lên tuyến trên.
Sau này, anh mới biết bệnh nhân nhiễm HIV.
Những rủi ro nghề nghiệp là điều người bác sĩ không thể tránh khỏi
Bị phơi nhiễm HIV, anh Hiếu phải thường xuyên dùng thuốc ARV (nhóm thuốc kháng virus HIV). Thể trạng yếu, Hiếu bị phản ứng mạnh với thuốc, ngày ngày vật lộn với chứng ảo giác, hoang tưởng. “Nắm được cơ chế sinh ảo giác nên khi nó sắp đến, mình lại đi ngủ để biến chúng thành cơn ác mộng, tránh hại mình, hại người”, Hiếu tâm sự.
Uống thuốc ARV cũng làm bệnh khớp lâu nay của Hiếu nặng nề hơn. Chỉ trong một thời gian ngắn, chàng trai trẻ suy nhược toàn thân, những cơn đau khớp, đau cột sống dày vò làm Hiếu có lúc phải vịn tường và cầu thang mới có thể đi lại được. Xa nhà, anh Hiếu một mình chống chọi với mọi đau đớn.
May mắn, sau 3 tháng điều trị, bác sĩ Hiếu được kết luận âm tính với HIV. Thế nhưng dù đã thoát căn bệnh thế kỷ, Hiếu vẫn đang phải ngày ngày vật lộn với những hệ lụy, là bệnh viêm khớp, viêm cột sống.
Bác sĩ Nguyễn Văn Hiếu chỉ là một trong rất nhiều những bác sĩ, cán bộ nhân viên y tế đã và đang thường xuyên đối mặt với những khó khăn, rủi ro nghề nghiệp.
Môi trường làm việc của cán bộ y tế luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố độc hại, nguy cơ phơi nhiễm, mắc các bệnh nghề nghiệp cao.
Theo thống kê chưa đầy đủ của Công đoàn Y tế Việt Nam, hiện đã có 1.361 đoàn viên và người lao động y tế cả nước mắc các bệnh hiểm nghèo. Trong đó, có trên 60% là bệnh ung thư. Con số này chắc chắn sẽ tăng lên khi các đơn vị y tế trong cả nước có thống kê đầy đủ.
Tình trạng b.ạo h.ành nhân viên y tế trong khi làm việc cũng có xu hướng gia tăng và ngày càng nghiêm trọng. Theo số liệu đưa ra Bộ Công an, trong năm 2017, có 25 vụ h.ành h.ung bác sỹ, nhân viên y tế với 37 đối tượng tham gia. Năm 2018, báo chí đưa tin có 21 vụ b.ạo h.ành (gây thương tích, đ.ập đồ, gây rối…) đối với nhân viên y tế.
Tuy nhiên, những số liệu thực tế chắc chắn sẽ nhiều hơn, bởi ngoài những vụ h.ành h.ung thân thể, người thầy thuốc còn phải chịu đựng nhiều hành vi đe dọa về mặt tinh thần, bị n.hục m.ạ, xúc phạm, gây tổn thương sâu sắc về mặt tâm lý.
Đã có những trường hợp, bác sĩ thậm chí mất đi tính mạng của mình (như trường hợp bác sĩ Trần Văn Giàu ở Bệnh viện Đa khoa Vũ Thư, Thái Bình năm 2012).
Những vụ h.ành h.ung, n.hục m.ạ, xúc phạm tinh thần cán bộ y tế vẫn xảy ra tại bệnh viện- Hình minh họa
Dù luôn có những rủi ro nghề nghiệp, người bác sĩ vẫn luôn cố gắng vượt qua tất thảy để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Giáo sư Lê Đức Hinh, nguyên trưởng khoa về Thần kinh – Bệnh viện Bạch Mai, một trong những chuyên gia hàng đầu của ngành Thần kinh học Việt Nam cũng từng trải qua rất nhiều rủi ro nghề nghiệp trong suốt gần 60 năm gắn bó với nghề y.
Vào thời chiến, có những khi, ông Hinh phải khám chữa bệnh không đèn, không nước, không bàn ghế dưới hầm tối đen, ẩm mốc hay lao ra giữa hàng bom đạn để cấp cứu phòng không kịp thời. Thế nhưng, ông bảo, dù là tình huống nào, ông cũng luôn cố gắng thích nghi với hoàn cảnh để hoàn thành nhiệm vụ.
“Phía sau mỗi bệnh nhân không chỉ là sức khỏe, tính mạng của họ mà còn là cuộc sống của những người xung quanh họ nữa. Tôi luôn đặt hai chữ trách nhiệm lên hàng đầu bởi cứu một bệnh nhân cũng là cứu rất nhiều người”, ông Hinh tâm sự.
Như ông Hinh, với rất nhiều người bác sĩ chân chính, làm tròn trách nhiệm nghề nghiệp, cứu sống bệnh nhân luôn là điều đầu tiên họ nghĩ đến, trước cả bản thân mình.
Ngày 26/4/2019, Công đoàn Y tế Việt Nam và Tạp chí Lao động và Công đoàn ký Kế hoạch liên tịch số 100/KHLT-CĐYT-TCLĐCĐ triển khai Chương trình “Bảo vệ Blouse trắng” năm 2019.
Chương trình nhằm mục đích tạo sự đồng thuận, cảm thông, chia sẻ của toàn xã hội đối với những khó khăn vất vả, sự hy sinh của cán bộ, nhân viên ngành Y; tuyên truyền, đề xuất xây dựng chính sách nhằm chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đoàn viên công đoàn ngành Y.
Trên hết là niềm mong mỏi các cấp chính quyền, các cơ quan, đoàn thể, mỗi người dân cùng chung tay ủng hộ Chương trình “Bảo vệ Blouse trắng” để đội ngũ y, bác sĩ yên tâm, tập trung sức lực và trí tuệ chăm sóc người bệnh; mỗi cán bộ, nhân viên ngành Y cùng hưởng ứng chương trình bằng việc nâng cao ý thức, chủ động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho mình để chăm sóc tốt hơn cho người bệnh.
Ngày 29/10 tới đây, Hội thảo “Bảo vệ Blouse trắng” với chủ đề “An toàn, vệ sinh lao động, phòng chống b.ạo h.ành nhân viên tại cơ sở y tế” – hoạt động cao điểm của Chương trình “Bảo vệ Blouse trắng” năm 2019 sẽ được tổ chức tại Hà Nội. Hội thảo do Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn và Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam Ngọ Duy Hiểu chủ trì.
Nguyễn Liên
Theo vietnamnet
Chủ động phòng ngừa HIV từ mẹ sang con
Theo thống kê, cứ khoảng 100 bà mẹ mang thai nhiễm HIV thì sẽ có 30 đ.ứa t.rẻ sinh ra cũng bị lây truyền HIV từ mẹ. Tuy nhiên, con số này sẽ giảm đi đáng kể nếu biết cách điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Chị N.T.H. (quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) cho biết, cách đây 5 năm, khi phát hiện mình bị HIV, chị đã sốc và nghĩ tới cái c.hết đang đến gần. Được tư vấn và uống thuốc ARV miễn phí, sức khỏe của chị cải thiện rõ rệt. Gần 1 năm trước, biết thông tin thuốc ARV không còn được phát miễn phí, chị đã mua BHYT và nhờ có BHYT nên chị không phải “đau đầu” lo t.iền thuốc.
Vì mặc cảm mình có HIV nên chị không nghĩ tới chuyện sinh con. Nhưng qua các buổi đến Trung tâm Y tế quận Nam Từ Liêm lấy thuốc, được bác sĩ tư vấn, trước khi mang thai nếu sử dụng thuốc điều trị virus HIV đúng cách, sẽ làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV sang con. Chị đã quyết định mang thai.
Trong quá trình mang thai, chị khám thai thường xuyên và được bác sĩ tư vấn sử dụng thuốc để tránh nguy cơ lây truyền sang con. Sau khi sinh, con chị được điều trị trong vòng 4-6 tuần để giúp ngăn ngừa nhiễm HIV. Để tránh lây nhiễm, chị không cho con bú sữa mẹ. Đến nay, con chị đã 8 tháng t.uổi, qua xét nghiệm cháu hoàn toàn khỏe mạnh. “Tôi vô cùng hạnh phúc, những tưởng đời mình không có cơ hội làm mẹ, nhưng thật may mắn tôi đã có con và cháu khỏe mạnh” – chị H. xúc động cho biết.
Ths.BS Nguyễn Thị Thu Trang, Trung tâm Y tế Nam Từ Liêm (Hà Nội) cho biết, trung bình có 800 người được tư vấn xét nghiệm HIV hàng tháng tại Trung tâm và tại 10 Trạm y tế xã/phường của quận Nam Từ Liêm. Mỗi năm, Trung tâm tổ chức 2 chiến dịch xét nghiệm HIV lưu động với 1.000 người được xét nghiệm/chiến dịch.
Qua các chiến dịch, phát hiện người nhiễm HIV, đã kịp thời tư vấn để người bệnh sử dụng thuốc ARV. Đặc biệt, nhờ tư vấn kỹ càng, theo dõi sát sao, nên tỷ lệ bà mẹ HIV mang thai không lây truyền sang con đã tăng lên.
Phát thuốc ARV cho người bệnh tại Trung tâm Y tế quận Nam Từ Liêm
Tại quận Nam Từ Liêm có 1.530 người bệnh đang điều trị ARV, trong đó người bệnh có BHYT không ngừng gia tăng. Nhờ có BHYT nên tỷ lệ người bệnh sử dụng thuốc ARV tăng trong năm 2019. Hiện quận có 400 người đang điều trị methadone và 800 người đã được điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV. Hằng năm, Trung tâm cấp phát trung bình 108.000 bơm kim tiêm, 68.000 BCS cho đối tượng có nguy cơ cao.
Theo số liệu thống kê, tử lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con là rất lớn, con đường lây truyền có thể từ lúc thai nhi còn trong bụng, trong lúc sinh nở hay quá trình mẹ cho con bú. Vì vậy, nếu thai phụ là người nhiễm HIV, thì có thể điều trị với sự kết hợp của các loại thuốc chống HIV, giúp cải thiện sức khỏe của bản thân và làm tránh lây nhiễm HIV từ mẹ sang con trước, trong hoặc sau khi sinh, thời gian điều trị càng sớm thì hiệu quả càng cao.
Nhật Minh
Theo anninhthudo