GS.TS Mai Trọng Khoa: Mấy chục năm lâm sàng, chưa thấy ai chữa khỏi ung thư bằng thực dưỡng

Trong suốt nhiều năm công tác, GS.TS. Mai Trọng Khoa, nguyên Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Bạch Mai cho biết, ông chưa ghi nhận trường hợp nào chữa khỏi bệnh ung thư chỉ bằng chế độ thực dưỡng.

GS.TS Mai Trọng Khoa khám cho người bệnh ung thư

Chia sẻ với báo chí, GS.TS. Mai Trọng Khoa không khỏi xót xa khi chứng kiến cảnh một số người bệnh ung thư bỏ ngang phác đồ điều trị của bệnh viện để về nhà ăn theo chế độ thực dưỡng nhằm “bỏ đói tế bào ung thư”, rồi “tu luyện” theo một pháp môn nào đó.

Kết quả, khi trở lại bệnh viện, người bệnh đã rơi vào tình trạng nguy kịch. Theo GS Khoa, nhiều bệnh nhân lúc phát hiện ung thư mới ở giai đoạn rất sớm có nhiều cơ hội điều trị, song chỉ vì tin vào quan niệm ăn “chế độ thực dưỡng” có thể hạn chế sự phát triển của tế bào ung thư, không chỉ tốn kém t.iền bạc, thời gian mà còn đ.ánh mất cơ hội điều trị chính thống ngay từ “giai đoạn vàng”.

Hậu quả là sau thời gian ăn “thực dưỡng” không thấy hiệu quả, người bệnh trở lại viện thì ung thư đã tiến triển vào giai đoạn 3, giai đoạn 4, trên một thân thể suy kiệt. Lúc này, thay vì áp dụng phác đồ điều trị, các bác sĩ lại phải chống suy kiệt cho bệnh nhân bằng việc truyền đạm, đường, các chất dinh dưỡng… để nâng cao thể trạng. Không ít bệnh nhân đã t.ử v.ong do suy kiệt trước khi c.hết vì ung thư.

Trước thực trạng đó, GS.TS Mai Trọng Khoa nhấn mạnh, quan điểm “bỏ đói tế bào ung thư” bằng chế độ ăn thực dưỡng là nhận thức không đúng trong điều trị ung thư. Thậm chí đây là quan điểm rất sai lầm bởi trong y học hiện đại, dinh dưỡng lâm sàng cũng được coi là một phương pháp điều trị phối hợp rất quan trọng.

“Chúng ta cần hiểu rõ bản chất của vấn đề: Đó là cần có một cơ thể khỏe mạnh thì mới tạo ra hệ thống miễn dịch tốt, khỏe mạnh thì mới có các tế bào miễn dịch đủ khả năng phát hiện, ức chế, t.iêu d.iệt các tác nhân gây bệnh – trong đó có tế bào ung thư. Bản thân tế bào ung thư cũng cần dinh dưỡng và chúng sẽ lấy dinh dưỡng từ chính người bệnh.

Nếu người mắc ung thư không được cung cấp đủ năng lượng, cơ thể sẽ gầy sút, suy kiệt, không đủ sức khỏe để chống chọi với bệnh tật cũng như không đáp ứng được với các phương pháp điều trị đặc hiệu như phẫu thuật, xạ trị, hóa trị…” – GS Mai Trọng Khoa nói.

Cũng theo vị chuyên gia đầu ngành về ung thư, bên cạnh các phương pháp điều trị như hóa trị, xạ trị, phẫu thuật, điều trị nội tiết, điều trị đích, gần đây có thêm một phương pháp mới là điều trị miễn dịch, tức là giúp các tế bào miễn dịch của hệ thống miễn dịch nhận diện và t.iêu d.iệt tế bào khối u.

Song để có một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh thì cần một cơ thể đủ khỏe. “Do vậy, cần phải coi ăn uống, dinh dưỡng hợp lý, khoa học là một phần không thể thiếu trong việc phòng và chống ung thư” – GS. Khoa nhấn mạnh.

Theo anninhthudo

‘Dùng thực dưỡng chữa ung thư là sai lầm’

Chúng ta chưa có bằng chứng cho thấy sử dụng chế độ thực dưỡng hiệu quả trong chữa trị ung thư. Ngược lại, chúng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho bệnh nhân.

Gần đây, những cuộc tranh cãi về điều trị ung thư bằng phương pháp ăn uống thực dưỡng liên tục xảy ra. Những người ủng hộ phương pháp này cho rằng chỉ cần ăn thực dưỡng có thể phòng và khỏi bệnh ung thư, không cần điều trị Tây y.

Dưới đây là chia sẻ của Tiến sĩ Kỹ thuật y sinh Lê Anh Phương, Đại học Quốc gia Singapore, thành viên Ban khoa học, Ruy Băng Tím, về phương pháp điều trị ung thư bằng thực dưỡng dưới con mắt khoa học.

Thực dưỡng hay thực dưỡng Ohsawa là chế độ dinh dưỡng thực hành phổ biến và được cho là có thể phòng ngừa, chữa nhiều bệnh như tiểu đường, tim mạch, ung thư.

Người theo chế độ thực dưỡng sử dụng thực phẩm chủ yếu bao gồm ngũ cốc nguyên cám (ở Việt Nam là gạo lứt), rau, củ quả. Họ hạn chế thịt và thực phẩm chế biến trong bữa ăn. Ngoài ra, cùng với những câu chuyện phục hồi của các bệnh nhân ung thư có tiên lượng xấu, thực dưỡng nhận được sự quan tâm của nhiều người về việc lựa chọn chế độ dinh dưỡng trong điều trị.

Lược sử và các nguyên tắc cơ bản của thực dưỡng

Thực dưỡng được giới thiệu vào thế kỷ 18, bởi bác sĩ người Đức Christophe Hufeland với niềm tin chế độ dinh dưỡng chú trọng thực phẩm chay sẽ giúp kéo dài t.uổi thọ và đảm bảo sức khỏe. Chúng được phổ biến rộng rãi vào thập niên 60 bởi triết gia người Nhật George Ohsawa cùng với môn đệ của ông là Michio Kushi.

Chế độ ăn uống thực dưỡng dựa trên nguyên lý âm – dương. Nguyên tắc cơ bản là tiêu thụ thực phẩm theo quân bình âm – dương, hòa hợp với thiên nhiên sẽ giúp con người sống thọ hơn và tránh bệnh tật. Ohsawa viết: “Không có bệnh nào chữa được đơn giản hơn là ung thư bằng cách trở về với việc ăn uống cơ bản và tự nhiên nhất”.

Chế độ ăn uống thực dưỡng dựa trên nguyên lý âm – dương. Ảnh: Yobo.

Phác đồ thực dưỡng của Ohsawa bao gồm 10 giai đoạn hạn chế dần về thành phần. Giai đoạn thứ 10 là chế độ ăn uống chỉ gồm nước và gạo lứt.

Tuy nhiên, vào cuối những năm 1960, một số biến chứng nghiêm trọng xảy ra ở những người đang theo dõi chế độ ăn của Ohsawa. Hội đồng Hiệp hội Y khoa Mỹ về Thực phẩm và dinh dưỡng (American Medical Association’s Council on Foods and Nutrition) đã báo cáo những trường hợp của bệnh Scobut, thiếu m.áu, tăng protein trong m.áu, hạ calci m.áu, xuất huyết, suy dinh dưỡng, suy thận và thậm chí t.ử v.ong ỏ những người theo thực dưỡng. Chế độ ăn này sau đó bị bài bác.

Sau đó, Kushi xuất bản một số sách về chế độ thực dưỡng với những điều chỉnh bớt khắc khổ hơn, tuyên bố rằng thực hành theo chế độ này sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư.

Chế độ này bao gồm tiêu thụ thực phẩm với 40-60% ngũ cốc nguyên hạt (hữu cơ trồng và nấu tại nhà) 20-30% rau và 5-10% các sản phẩm từ đậu và rau biển. Một lượng nhỏ cá, hạt hoặc quả hạch và được trồng tại địa phương, trái cây theo mùa cho phép hàng tuần. Thịt đỏ, gia cầm, trứng và sản phẩm sữa chỉ được cho phép ăn một lượng rất nhỏ hàng tháng. Đường tinh chế, chất làm ngọt nhân tạo, vitamin, khoáng chất bổ sung và các loại phụ gia hóa học cần phải tránh.

Tại sao thực dưỡng trở thành chế độ dinh dưỡng phổ biến?

Những thành phần thực phẩm trong thực dưỡng, về cơ bản là tốt cho sức khỏe và có mối liên hệ tới phòng ngừa ung thư. Ngũ cốc nguyên cám và rau củ, trọng tâm của chế độ thực dưỡng, được cho thấy có sự liên hệ với giảm thiểu nguy cơ nhiều loại ung thư như đại trực tràng, dạ dày và nội mạc tử cung.

Chúng ta chưa có đủ bằng chứng và báo cáo tổng hợp cho thấy thực hành thực dưỡng có thể phòng ngừa ung thư. Ảnh: Flickr.

Theo báo cáo của American Institute for Cancer Research and World Cancer Research Fund (1997), tăng tiêu thụ rau và trái cây từ 250 đến 400 g/ngày có thể làm giảm 23% nguy cơ ung thư. Thịt đỏ – loại thực phẩm được giảm thiểu trong thực dưỡng có mối liên hệ với nhiều bệnh ung thư như đại tràng, trực tràng, tuyến t.iền liệt và tuyến tụy.

Sự liên hệ giữa thành phần thực phẩm của chế độ thực dưỡng và nguy cơ ung thư dễ dẫn đến suy luận rằng chúng giúp phòng ngừa căn bệnh quái ác này. Nhưng trên thực tế, chúng ta chưa có đủ bằng chứng và báo cáo tổng hợp cho thấy thực hành thực dưỡng có thể phòng ngừa ung thư.

Thực dưỡng có hiệu quả trong điều trị ung thư?

Hiện nay, chúng ta chưa có bằng chứng cho thấy việc sử dụng chế độ thực dưỡng có hiệu quả trong chữa trị ung thư. Ngược lại, chúng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro trong việc đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân ung thư, dẫn đến suy nhược cơ thể.

Suy dinh dưỡng là vấn đề thường gặp ở bệnh nhân ung thư, dẫn đến nhập viện kéo dài, giảm đáp ứng với điều trị, tăng tác dụng phụ, chất lượng cuộc sống bị suy giảm và tiên lượng xấu hơn. Người bệnh cần đảm bảo chế độ ăn cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng gồm đạm, đường, tinh bột, chất béo, nước, vitamin, khoáng cần thiết để đáp ứng cân nặng và lượng calorie cần thiết. Chúng ta chỉ có duy nhất bằng chứng cho thấy chế độ ăn giảm chất béo có thể giúp phòng ngừa tái phát cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu. Tuy vậy, việc đảm bảo cân nặng, calo nạp vào và các chất dinh dưỡng còn lại vẫn cần thiết.

Một nghiên cứu tổng hợp so sánh thực dưỡng với chế độ ăn bình thường cho thấy chế độ thực dưỡng thiên lệch nhiều về gạo lứt và hạn chế thực phẩm cung cấp nhiều đạm như thịt, cá, trứng, sữa, đậu tương dẫn đến thiếu hụt lượng calorie, đạm, vitamin D, vitamin B1, B2, B3, B12 (những chất quan trọng cho hình thành tế bào hồng cầu, tổng hợp DNA, thiếu vitamin B12 có thể dẫn tới mất vị giác, khứu giác, làm ăn uống không ngon, từ đó tiếp tục làm suy dinh dưỡng ở bệnh nhân) và canxi (quan trọng cho sức khỏe tim mạch và xương) cần thiết cho cơ thể.

Hơn thế, chế độ ăn uống thực dưỡng có nhiều lượng muối natri và phốt pho nạp vào cơ thể, dẫn tới các nguy cơ về xương và tim mạch, làm giảm sức khỏe bệnh nhân, chất lượng sống. Do đó, chế độ thực dưỡng không được khuyến khích bởi bác sĩ, chuyên gia dinh dưỡng và các tổ chức ung thư.

Chúng tôi xin đưa ra kết luận rằng không có bằng chứng cho thấy thực dưỡng có hiệu quả trong điều trị ung thư. Bên cạnh đó, những bằng chứng liên quan tới phòng ngừa ung thư của thực dưỡng là chưa đủ. Thậm chí, việc giảm thiểu dinh dưỡng chỉ còn gạo lứt, muối mè làm nguồn thức ăn chính (bậc 10 của thực dưỡng) có thể dẫn đến thiếu đi lượng và chất dinh dưỡng quan trọng để đảm bảo sức khỏe trong quá trình điều trị.

Người bệnh nên dựa theo hướng dẫn của bác sĩ và đội ngũ y tế để lựa chọn chế độ dinh dưỡng phù hợp nhất cho bản thân, với điều kiện đầy đủ lượng và chất để đáp ứng điều trị tốt hơn. Đối với người khỏe mạnh, khi thực hành thực dưỡng cần cân nhắc và điều chỉnh khi áp dụng để đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng.

Ohsawa, tên khai sinh Nyoichi Sakurazawa, được sinh ra ở Nhật bản vào năm 1893 và chuyển sang sống tại Paris vào khoảng thế chiến thứ 2. Trái với hiểu nhầm của nhiều người, George Ohsawa không phải giáo sư và chưa được đào tạo chính quy trong khoa học và y tế.

Ông dành phần lớn cuộc đời viết sách và phổ biến về triết lý và lối sống thực dưỡng. Ông cũng không tham gia nghiên cứu khoa học. Những gì ông viết trên sách không dựa trên dữ liệu thực nghiệm hay hệ thống mà phần lớn là quan điểm và quan sát cá nhân. Ông ra đi vào năm 74 t.uổi vì bệnh tim.

Ruy Băng Tím là tổ chức phi lợi nhuận về phòng chống ung thư tại Việt Nam, được thành lập vào ngày 12/12/2015 với sự tham gia của các bác sĩ ung bướu, các nhà khoa học nghiên cứu về ung thư trong và ngoài nước.

Tài liệu tham khảo

Kushi, M. & Jack, A. (1986) The Book of Macrobiotics: The Universal Way of Health, Happiness, and Peace. Japan Publications New York, NY.

Kushi, L. H., Cunningham, J. E., Hebert, J. R., Lerman, R. H., Bandera, E. V., & Teas, J. (2001). The macrobiotic diet in cancer. J Nutr, 131(11 Suppl), 3056S-3064S. doi:10.1093/jn/131.11.3056S.

Kotzsch, R.E. (1985) A corner of history: Hufeland. Macrobiotics Yesterday and Today Japan Publications New York, NY.

Unproven methods of cancer managememt: macrobiotic diets. (1984). CA Cancer J Clin, 34(1), 60-63.

Jacobs, D. R., Jr., Marquart, L., Slavin, J., & Kushi, L. H. (1998). Whole-grain intake and cancer: an expanded review and meta-analysis. Nutr Cancer, 30(2), 85-96.

World Cancer Research Fund & American Institute for Cancer Research (1997) Food, Nutrition and the Prevention of Cancer: A Global Perspective American Institute for Cancer Research Washington, DC.

Sierpina, V., Levine, L., McKee, J., Campbell, C., Lian, S., & Frenkel, M. (2015). Nutrition, Metabolism, and Integrative Approaches in Cancer Survivors. Seminars in Oncology Nursing, 31(1), 42-52.

National Cancer Institute-Nutrition in Cancer are (PDQ.

Blackburn, G. L., & Wang, K. A. (2007). Dietary fat reduction and breast cancer outcome: results from the Women’s Intervention Nutrition Study (WINS). The American Journal of Clinical Nutrition, 86(3).

Harmon, B. E., Carter, M., Hurley, T. G., Shivappa, N., Teas, J., & Hebert, J. R. (2015). Nutrient Composition and Anti-inflammatory Potential of a Prescribed Macrobiotic Diet. Nutr Cancer, 67(6), 933-940.

American Cancer Society. Benefits of good nutrition during cancer treatment.

Theo Zing

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *