Có nên coi “bữa sáng như ông hoàng”?

Nhiều quan điểm ủng hộ bữa sáng là bữa quan trọng nhất trong ngày. Ngược lại, lại có ý kiến cho rằng ăn sáng hay không tùy thuộc vào từng người.

TS Trương Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam cho hay,bữa sáng là chủ đề các nhà khoa học dinh dưỡng tranh luận nhiều.

Nhiều quan điểm ủng hộ bữa sáng quan trọng nhất trong ngày. Họ cho rằng sau khi kết thúc buổi tối, con người cần có nạp năng lượng đảm bảo cho một ngày. Có những nghiên cứu còn chỉ ra mối liên quan giữa bữa sáng và trí nhớ, huyết áp, giảm cân.

Theo TS Trương Hồng Sơn, ăn bữa sáng ăn hay không, tuỳ thuộc từng người, không có công thức bắt buộc.

Ngoài ra, các chuyên gia của Viện Dinh dưỡng cho hay, thời gian lưu lại thức ăn trong dạ dày phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Độ t.uổi, giới, hoạt động thể lực, trạng thái tâm lý, nhưng chủ yếu phụ thuộc vào bản chất hoá học của thức ăn. Ví dụ: Glucid lưu lại trong dạ dày trung bình 4 giờ, protid 6 giờ và lipid là 8 giờ.

Qua một đêm nghỉ ngơi dạ dày đã trống rỗng, nếu không ăn sáng thì không tốt vì từ bữa ăn tối đến sáng hôm sau thời gian nhịn ăn tối thiểu là 10 giờ.

Dạ dày luôn co bóp lúc có thức ăn cũng như khi không có thức ăn. Khi dạ dày co bóp không có thức ăn sẽ ảnh hưởng xấu đến dạ dày và có cảm giác cồn cào. Đồng thời khi quá đói, đường huyết hạ dễ mệt mỏi và giảm năng suất lao động.

TS Trương Hồng Sơn

Theo các chuyên gia dinh dưỡng, nên duy trì 7 bữa sáng trong tuần. Nhiều nghiên cứu ở Nhật Bản cho ra, những người duy trì thói quen ăn sáng sẽ tạo thói quen tốt cho cơ thể, còn nếu không ăn sáng, nhiều người có xu hướng hút thuốc hoặc không ăn trái cây, rau củ. Nếu nhịn tới bữa trưa thì sẽ ăn gấp đôi, nguy cơ bị tiểu đường.

Ngược lại, có những nhà khoa học lại cho rằng khi lọc bỏ yếu tố nhiễu, ăn sáng chỉ là một phần trong tổng thể, tùy thuộc vào từng người. Thậm chí có người cho rằng bỏ bữa ăn sáng nằm trong liệu trình giảm cân. Vì dù bữa ăn trưa có tăng lên thì năng lượng cũng tiêu hao đi từ 200-400kcalo/ngày.

“Sẽ không có công thức chung cho mọi người mà phải tùy vào từng người” – TS Sơn nói và cho rằng, việc ăn sáng thì quan trọng, nhưng quan trọng đến đâu phải tùy vào độ t.uổi, tình trạng dinh dưỡng và cách sống nữa.

Không ít người coi ăn sáng là chiêu trò của những nhà thực phẩm ăn sẵn nên quyết tâm loại bỏ trong khi cơ thể lại cần. Ví dụ những người bị đường huyết phải rải đều các bữa trong ngày, nếu bỏ bữa sáng thì lại thiếu năng lượng trong thời gian dài.

Còn với người thừa cân béo phì, có người nghĩ phải “ăn sáng như ông hoàng”, là quan trọng nhất nên nạp thái quá năng lượng khi không đói, thậm chí bữa sáng lại không đạt chất lượng (chất xơ, protein..). Từ đó năng lượng vào cơ thể rất thừa, khiến họ thất bại trong giảm cân. Không ít người vì thế lại thắc mắc: “Có ăn gì đâu mà vẫn béo”.

Lời khuyên nào của chuyên gia?

Theo TS Trương Hồng Sơn, không có giải pháp nào mặc nhiên đúng cho tất cả mọi người như chúng ta vẫn tưởng.

Tuy nhiên, với t.rẻ e.m và người cần tăng cân, bữa sáng nên có và nên sau khi ngủ dậy 30 phút.

Với người thừa cân, có thể không cần hoặc năng lượng thấp ở thời điểm giữa buổi sáng hoặc muộn hơn nữa (tuỳ theo cảm giác đói của mỗi người), điều này sẽ giúp họ có cảm giác không đói và ăn ít vào bữa trưa.

Chọn nhóm thực phẩm: Tinh bột (vừa phải); protein, chất xơ, vitamin. Tránh ăn các món chiên rán, xào vào bữa sáng bởi nó sẽ gây cảm giác đầy bụng. Cũng không nên dùng đồ ngọt quá nhiều, chất béo.

Thu Nguyên

Theo giadinh.net

Béo phì: Gánh nặng dinh dưỡng t.rẻ e.m Việt

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học và chuyên gia dinh dưỡng, học sinh Việt Nam đang đối mặt với nhiều hệ lụy sức khỏe khi tình trạng thừa cân, béo phì ngày càng tăng.

Nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ khẩu phần ăn ở cả gia đình và nhiều cơ sở giáo dục hiện hầu như chỉ được kiểm soát bằng cảm tính, chưa được xây dựng một cách khoa học.

Tăng cường vận động sẽ làm giảm tỉ lệ thừa cân, béo phì ở t.rẻ e.m. Ảnh: S.T

Nhiều hiểm nguy

TS. Trương Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam, Phó Tổng thư ký Tổng hội Y học Việt Nam cho biết, một trong những nguy cơ cao gây ra các bệnh không lây nhiễm là tình trạng thừa cân béo phì. Cụ thể, tại Việt Nam, trong 10- 20 năm trở lại đây, tỷ lệ thừa cân béo phì tăng gấp ba lần. Bên cạnh đó, nếu như trước kia, chủ yếu béo phì hay gặp ở nữ giới thì giờ tỷ lệ này cũng đang tăng ở nam giới và đặc biệt tăng nhanh ở lứa t.uổi trẻ em.

Theo chuyên gia này, một nghiên cứu mới nhất ở trường tư thục cho thấy, tỷ lệ học sinh béo phì lên tới 30%. Đây là một trong nhiều nguyên nhân gây ra sự bùng nổ bệnh mãn tính không lây như tim mạch, huyết áp, tiểu đường, phổi và hen tắc nghẽn mãn tính… Trong 10-20 năm nữa, nếu chúng ta không có biện pháp kiểm soát chặt chẽ ngay từ hôm nay.

Thống kê chưa đầy đủ của Viện Dinh dưỡng sau 1 năm nghiên cứu (2017-2018) trên đối tượng là học sinh tiểu học, THCS và THPT tại 75 trường thuộc 25 xã, phường của Hà Nội, TPHCM, Thái Nguyên, Nghệ An và Sóc Trăng, nhận thấy t.rẻ e.m ở vùng nông thôn có tỉ lệ suy dinh dưỡng cao; thừa cân, béo phì tập trung ở vùng thành thị (tình trạng thừa cân béo phì của học sinh tiểu học thành thị chiếm 41,9%, trong khi tỉ lệ này ở nông thôn là 17,8%).

Về ảnh hưởng của thừa cân, béo phì, theo một số chuyên gia tâm lý, nếu không có biện pháp can thiệp sớm sẽ gây nhiều hệ lụy nguy hiểm. Qua phản ánh của nhiều bậc phụ huynh có con mắc thừa cân, béo phì cho thấy, khi đến trường trẻ hay bị tự ti do bạn bè trêu ghẹo, chế giễu, dẫn đến chán chường, không muốn đi học. Điều này kéo dài sẽ khiến trẻ thụ động, thiếu linh hoạt và cô đơn vì không có bạn, nặng hơn có thể là trầm cảm.

Bà Lê Thị Hải, Viện Dinh dưỡng cảnh báo, béo phì là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh tật của nhiều cơ quan, bộ phận trong cơ thể như thoái hóa khớp, cong xương đùi, đau thắt lưng; hay bên cạnh đó là tình trạng kém dung nạp glucose, kháng insulin, nặng hơn là bệnh đái tháo đường typ 2, rối loạn chuyển hóa mỡ m.áu, tăng acid uric gây bệnh gút. Ngoài ra, béo phì ở trẻ còn làm tăng nguy cơ mắc tăng huyết áp, xơ vữa mạch m.áu, nhồi m.áu cơ tim, tai biến mạch não, hẹp tắc động mạch chi, giảm thông khí, ngừng thở khi ngủ…

Về nguyên nhân của tình trạng nêu trên, theo Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam, nguyên nhân chính là do các bậc phụ huynh đang tạo thói quen xấu bằng cách cho trẻ sử dụng nhiều thực phẩm chế biến sẵn, lạm dụng đồ uống có ga, ăn nhiều đồ ngọt. “Việc lạm dụng đồ ngọt sẽ gây ra cản trở hấp thụ canxi cho t.rẻ e.m. Bên cạnh đó, thói quen chỉ cho trẻ ăn một loại đồ ăn, lặp lại nhiều lần, nhiều bữa liên tiếp cũng khiến trẻ dễ béo phì do trẻ có mong muốn ăn loại thực phẩm đó với số lượng lớn”, chuyên gia này phân tích.

Xây dựng thực đơn khoa học

Ngoài vấn nạn béo phì, t.rẻ e.m Việt cũng đang đối diện gánh nặng suy dinh dưỡng khi qua nhiều năm tỉ lệ này có giảm nhưng chưa bền vững. Một trong các nguyên nhân cơ bản của tình trạng nêu trên xuất phát từ việc ăn uống không hợp lý tại cả gia đình và trường lớp. Trẻ mầm non nói chung chỉ đạt 2/3 nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị; trẻ ở độ t.uổi 6-11 không đạt nhu cầu khuyến nghị. Ngoài ra, có nhiều trường hợp t.rẻ e.m ở cả nông thôn và thành phố thiếu can xi hoặc có tỷ lệ can xi/phốt pho chưa hợp lý.

Theo PGS, TS Lê Bạch Mai, nguyên Phó Viện trưởng Dinh dưỡng quốc gia, khẩu phần ăn của học sinh tiểu học ở nước ta hiện đáp ứng nhu cầu cao hơn khuyến nghị về năng lượng và protein. Tuy nhiên, khẩu phần ăn của học sinh THCS lại chưa đạt mức khuyến nghị, đặc biệt là về mức năng lượng, khẩu phần can xi, sắt, kẽm và nhiều nhóm vitamin A, B, C.

Còn quan điểm của TS. Sơn thì cho rằng, bữa ăn học đường của học sinh tiểu học và THCS nước ta dù đã cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế như chưa có danh mục thực phẩm cung cấp năng lượng hay vi chất thiết yếu theo nhóm t.uổi, theo mùa.

Vị chuyên gia này phân tích, bữa ăn học đường chiếm phần quan trọng trong khẩu phần ăn thực tế hàng ngày của t.rẻ e.m. Khẩu phần thiếu hợp lý sẽ dễ dẫn đến suy dinh dưỡng, thiếu vi chất hoặc thừa cân, béo phì… ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, quá trình phát triển thể lực, tầm vóc, trí tuệ, cản trở sự tăng trưởng và phát triển toàn diện của t.rẻ e.m nói riêng, sự gia tăng tăng trưởng của người Việt Nam nói chung.

Gần đây nhất khi tham gia nghiên cứu dinh dưỡng bữa ăn học đường cho t.rẻ e.m Hà Nội, TS. Sơn cho biết, đội ngũ chuyên gia dinh dưỡng nhấn mạnh đến việc giảm lượng đường và lượng muối. Đặc biệt, thực đơn bữa ăn học đường được tính toán 4 tuần mới quay lại món ăn cũ để tạo ra sự đa dạng cho bữa ăn, bổ sung đầy đủ vi chất dinh dưỡng cho t.rẻ e.m.

Lời khuyên của TS. Sơn là các gia đình nên cho trẻ ăn phong phú các loại thức ăn để trẻ đủ dinh dưỡng và các vi chất cần thiết. Bởi nếu kéo dài việc ăn một, vài loại thức ăn cố định sẽ khiến trẻ thiếu vi chất. “Thiếu vi chất làm chậm lại quá trình chuyển hóa năng lượng trong cơ thể, sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng khiến trẻ béo hơn”, Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam lo ngại.

Ngoài ra, để đảm bảo dinh dưỡng hợp lý cho học sinh các cấp học, theo các chuyên gia, cần bảo đảm đáp ứng từ 45-55% nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị, các vi chất thiết yếu đối với học sinh tiểu học; 30-40% nhu cầu đối với học sinh THCS; khuyến khích trẻ ăn nhiều rau xanh, trái cây, hạn chế tiêu thụ thực phẩm chứa nhiều đường, muối; hình thành thói quen ăn uống tốt, tăng cường tập thể dục thể thao trong giai đoạn học đường.

Ngoài ra, để giúp trẻ phát triển toàn diện, các chuyên gia y tế cho rằng việc vận động cũng rất quan trọng. Trong một số nghiên cứu cho thấy, người Việt không chú ý nhiều đến vận động. “Các bậc phụ huỵnh nên chú ý nguyên tắc “5 2″ tức là 5 ngày tập thể dục và 2 ngày chơi thể thao”, TS. Sơn cho hay.

Dương Ngân

Theo baohaiquan

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *