Phát hiện sớm ung thư tử cung

Ung thư cổ tử cung đứng thứ hai về số ca mắc mới cũng như nguyên nhân t.ử v.ong ở phụ nữ Việt hàng năm, sau ung thư vú.

Phó giáo sư Lưu Thị Hồng, Giảng viên Đại học Y Hà Nội, cho biết như trên tại Hội nghị Sản phụ khoa – Hỗ trợ sinh sản, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập khoa Phụ sản, Bệnh viện Bạch Mai ngày 29/11.

“Nhiều phụ nữ được cứu sống từ các biến chứng liên quan đến sinh đẻ, nhưng sau đó có thể mắc và t.ử v.ong vì các bệnh ung thư phụ khoa khác, bao gồm cả ung thư cổ tử cung”, bà Hồng nói.

Theo bà Hồng, ung thư cổ tử cung không phải bệnh di truyền, thủ phạm chính gây ra bệnh là virus HPV (virus gây u nhú ở người). Bình thường, HPV có hơn 100 type nhưng 14 type có nguy cơ cao gây ra loại ung thư này. Chủng HPV 16 và HPV 18 là 2 chủng có khả năng gây ung thư cổ tử cung cao nhất, chúng được tìm thấy ở 70% trường hợp ung thư cổ tử cung. Ngoài ra, virus này còn gây ung thư â.m h.ộ, â.m đ.ạo, d.ương v.ật, h.ậu m.ôn, mụn cóc s.inh d.ục…

“Tất cả phụ nữ đang có sinh hoạt t.ình d.ục đều có nguy cơ nhiễm HPV nhóm nguy cơ cao gây ung thư”, bà Hồng khẳng định. HPV xâm nhập lây truyền qua đường t.ình d.ục và ngoài đường t.ình d.ục. Trong đó, viurs này chỉ cần tiếp xúc t.ình d.ục (qua s.inh d.ục – s.inh d.ục; tay – s.inh d.ục; miệng – s.inh d.ục) cũng có thể lây. Ngoài ra, những đồ dùng như đồ lót, găng phẫu thuật… cũng là những vật lây truyền. Mẹ cũng có thể lây virus HPV cho con lúc sinh nở.

Phụ nữ có thể được chẩn đoán nhiễm HPV qua kết quả kiểm tra phết tế bào â.m đ.ạo (PAP) bất thường. Ảnh: Designntrend.

Theo bà Hồng, nhiễm HPV mới có thể xảy ra ở bất cứ độ t.uổi nào, song nhóm cao nhất là phụ nữ dưới 25 t.uổi với 20%. Phần lớn, người nhiễm không có triệu chứng rõ ràng nên khó phát hiện. Một số người có thể thấy dấu hiệu rõ ràng của mụn cóc s.inh d.ục hoặc các thay đổi t.iền ung thư ở tử cung, â.m h.ộ, h.ậu m.ôn hoặc d.ương v.ật. Với phụ nữ, có thể được chẩn đoán nhiễm HPV qua kết quả kiểm tra phết tế bào â.m đ.ạo (PAP) bất thường.

Bà Hồng cho biết, người có quan hệ t.ình d.ục trước 17 t.uổi, quan hệ với nhiều người, sinh đẻ nhiều lần, viêm s.inh d.ục do virus Herpes… là các yếu tố thuận lợi làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung. Những nguyên nhân khác như suy giảm miễn nhiễm, yếu tố nội tiết, nghiện t.huốc l.á… cũng làm tăng nguy cơ.

Để dự phòng và kiểm soát ung thư cổ tử cung, ngoài những biện pháp truyền thông giáo dục sức khỏe, các chuyên gia cho rằng cần dự phòng 3 cấp, trong đó có quan hệ t.ình d.ục an toàn, tiêm vắcxin phòng HPV, sàng lọc và điều trị các tổn thương t.iền ung thư. Xét nghiệm HPV rất có giá trị trong sàng lọc ung thư cổ tử cung.

Vắcxin ngừa HPV được khuyến cáo tiêm cho phụ nữ độ t.uổi 9-26, tốt nhất là 11 đến 12 t.uổi. Vắcxin đạt hiệu quả cao nhất khi tiêm ngừa trước lần quan hệ t.ình d.ục đầu tiên. Liều tiêm được chỉ định 3 liều, theo đó liều thứ hai cách liều thứ nhất tối thiểu một tháng và liều ba cách liều hai tối thiểu 3 tháng.

Lê Nga

Theo VNE

Phụ nữ ngoài 45 t.uổi ít xét nghiệm sàng lọc có nguy cơ cao bị ung thư cổ tử cung

Theo một nghiên cứu mới đây, số lượng phụ nữ tham gia các xét nghiệm sàng lọc Pap smear thường xuyên giảm dần sau 45 t.uổi, mặc dù 50% chẩn đoán ung thư cổ tử cung xảy ra ở phụ nữ trên 49 t.uổi.

Ung thư cổ tử cung là một trong những loại ung thư có thể phòng ngừa. Tuy nhiên, những phát hiện từ trung tâm ung thư của Đại học Michigan (Mỹ) nhấn mạnh sự cần thiết của phụ nữ trong việc tiếp tục tham gia các cuộc hẹn tái khám sau mãn kinh để phát hiện bệnh sớm.

Nghiên cứu mới, xuất hiện trên tạp chí Y học dự phòng và dựa trên phân tích dữ liệu từ khoảng 80.000 người tham gia tại Hoa Kỳ, cho thấy tỷ lệ sàng lọc giảm ở một số nhóm dân số phụ nữ, đặc biệt là những người trong độ t.uổi từ 49 đến 65. Phụ nữ ở khu vực nông thôn và những người có trình độ học vấn thấp hơn cũng ít có điều kiện thường xuyên tham gia xét nghiệm sàng lọc.

Tại Anh, tổ chức NHS (National Health Service) cho biết tất cả những phụ nữ trong độ t.uổi từ 25 đến 64 nên đi kiểm tra cổ tử cung thường xuyên – họ sẽ nhận được một thư mời tham gia các buổi khám và xét nghiệm định kỳ.

Trừ khi bác sĩ yêu cầu bạn cần kiểm tra thường xuyên hơn, bạn nên làm các xét nghiệm sàng lọc Pap smear cứ sau 3 năm 1 lần trong độ t.uổi 25-49, sau đó cứ sau 5 năm một lần từ 50 đến 64 t.uổi. Sau 65 t.uổi, bạn sẽ chỉ được mời tới kiểm tra nếu một trong những xét nghiệm cuối cùng của bạn cho kết quả bất thường.

Kiểm tra sàng lọc cổ tử cung cho phép nhìn thấy những thay đổi tế bào bất thường ở cổ tử cung hoặc sự hiện diện của virus HPV. Một chương trình thường quy về tiêm vaccine ngừa HPV đã được cung cấp cho các b.é g.ái ở các trường trung học ở Anh kể từ năm 2008 và các b.é t.rai kể từ tháng 9/2019. Nhưng các nhóm t.uổi lớn hơn không nhận được chương trình này. Các nhà khoa học cho rằng thậm chí nhóm độ t.uổi này cần chú trọng hơn vào sàng lọc.

Phụ nữ ngoài 45 t.uổi ít tham gia xét nghiệm sàng lọc nguy cơ bị ung thư cổ tử cung cao

Từ quan điểm y tế cộng đồng, việc sàng lọc phụ nữ dưới 30 t.uổi được coi là “đầu tư tài nguyên” kém hiệu quả nhất, vì ung thư có xu hướng phát triển ở t.uổi trung niên. Trong khi đó, nếu một phụ nữ được sàng lọc sau 42 t.uổi, có khả năng 8 trong số 10 người sẽ không phát hiện ung thư trong lần sàng lọc tiếp theo của mình vài năm sau đó – cũng có nghĩa đây là một giải pháp quan trọng để sớm phát hiện vấn đề.

Nghiên cứu này hỗ trợ cho những nghiên cứu trước đây từ Cancer Research UK, cho thấy những phụ nữ không tham dự sàng lọc sau sinh nhật lần thứ 50 của họ có khả năng bị ung thư cổ tử cung cao gấp 6 lần. Số phụ nữ đủ điều kiện ở độ t.uổi 50-64 tham gia các cuộc hẹn thăm khám và xét nghiệm sàng lọc cổ tử cung đã giảm từ 81% năm 2003 xuống còn 77,5% vào năm 2013.

Giáo sư Diane Harper, tác giả của những nghiên cứu cao cấp, cho biết: Phát hiện sớm là “chìa khóa” để ngăn ngừa các trường hợp ung thư cổ tử cung xâm lấn, tàn phá và có khả năng gây t.ử v.ong.

Phương Liên

Theo Independent/phunuvietnam

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *