Sở Y tế Hà Nội cho biết đã ghi nhận ca mắc viêm não mô cầu đầu tiên trong năm 2024. Đây là trường hợp bệnh nhân nam, 22 t.uổi, trú tại thị xã Sơn Tây.
Dấu hiệu đặc trưng của nhiễm não mô cầu.
Viêm não mô cầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính qua đường hô hấp thường gặp ở trẻ. Nếu được phát hiện sớm và điều trị tích cực, tỷ lệ t.ử v.ong của bệnh rơi vào khoảng 5% đến 15%.
Viêm não mô cầu dễ gây thành dịch
Tác nhân gây bệnh viêm não mô cầu là vi khuẩn có tên khoa học là Neisseria meningitidis (viết tắt là N.meningitidis), gọi là não mô cầu.
Theo ghi nhận, chúng thường ký sinh ở họng mũi người. Nếu ở trạng thái không gây bệnh, N.meningitidis thường không có vỏ. Khi điều kiện thuận lợi, N.meningitidis gây viêm họng mũi (thường là nhẹ, không có triệu chứng). Một tỷ lệ nhỏ trong các trường hợp này, chúng từ họng mũi xâm nhập vào m.áu, thường là qua đường bạch huyết, gây ra tình trạng nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu.
Từ m.áu, N.meningitidis có thể đến màng não gây ra viêm màng não, hoặc đến da gây nên các chấm hoặc ban xuất huyết; hiếm hơn, có thể gặp các tổn thương ở khớp, phổi. Tổn thương xuất huyết có thể gặp ở da hoặc ở các cơ quan nội tạng đặc biệt là thận (hội chứng Waterhouse- Friderichsen). Nhiễm khuẩn huyết do N.meningitidis có thể dẫn đến sốc nặng trong vòng vài giờ.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống dịch bệnh Mỹ (CDC), 5-10% dân số có trong người vi khuẩn não mô cầu Neisseria meningitidis, gây viêm màng não do não mô cầu. Trong đa số trường hợp, vi khuẩn ở trạng thái không hoạt động, có nghĩa là sẽ không gây bệnh, không có triệu chứng lâm sàng.
Nếu vi khuẩn ở trạng thái hoạt động, nghĩa là gây nên các triệu chứng và bệnh, chúng trở nên rất nguy hiểm. Theo viện nghiên cứu quốc gia về các rối loạn thần kinh và đột quỵ Mỹ (NINDS), n.hiễm t.rùng có thể dẫn đến t.ử v.ong từ 10-15% số trường hợp, kể cả đã được điều trị.
10-15% các trường hợp còn lại sẽ để lại những tổn thương vĩnh viễn về não bộ hoặc các hậu quả, di chứng không mong muốn nghiêm trọng khác.
Biểu hiện viêm não mô cầu
Thời gian ủ bệnh não mô cầu 1-10 ngày trung bình 5-7 ngày. N.hiễm t.rùng huyết do não mô cầu có thể là diễn tiến tối cấp, cấp tính hay mạn tính.
N.hiễm t.rùng huyết thể cấp tính là thường gặp nhất, khởi bệnh đột ngột tuy trong một số bệnh nhân có tình trạng tương tự như cảm cúm trước đó như mệt nhọc, đau họng, ho, nhức đầu…
Tiếp theo, bệnh nhân sốt cao 39-40 độ C, ớn lạnh, rét run nhiều lần, nhức đầu, nôn ói, đau khớp, đau cơ, thở nhanh, huyết áp tụt.
Hình ảnh đặc trưng của bệnh là ban xuất huyết xuất hiện trong khoảng 75% các trường hợp trong vòng 1-2 ngày sau sốt, màu đỏ hoặc tím thẫm, bờ không tròn đều, kích thước thay đổi từ 1-2 mm đến vài cm.
Vết ban có bề mặt bằng phẳng, không gồ lên da, có khi có hoại tử trung tâm, phân bố khắp người, nhiều nhất ở vùng nách, hông, quanh khớp (khuỷu, gối, cổ chân), lan nhanh về số lượng cũng như kích thước, kèm xuất huyết niêm mạc mắt ở hầu hết trường hợp.
Bệnh dễ gây thành dịch nhất là trong các nhà trẻ, gia đình, khu tập thể khu công nghiệp mật độ người đông và điều kiện vệ sinh kém.
T.uổi dễ mắc bệnh nhất là t.rẻ e.m từ 6 tháng đến 3 t.uổi hoặc thanh thiếu niên 14 đến 20 t.uổi. Bệnh có tỷ lệ mắc thấp ở người trên 20 t.uổi. Thể thường gặp nhất của bệnh là thể n.hiễm t.rùng huyết và viêm màng não mủ.
Thể viêm màng não thường xảy ra sau viêm mũi họng, hoặc khởi phát đã là triệu chứng của viêm màng não. Bệnh nhân cũng bị sốt đột ngột 39-40 độ C, mệt mỏi, đau đầu nhiều, nôn vọt. Người bệnh nhanh chóng bị lú lẫn, hoảng loạn, co giật và hôn mê.
Lời khuyên thầy thuốc
Bệnh viêm màng não do não mô cầu có khả năng t.ử v.ong cao nên phải xếp vào dạng ưu tiên cấp cứu. Khi thấy có biểu hiện nghi ngờ, người bệnh cần tới ngay cơ sở y tế càng sớm càng tốt và không nhất thiết phải cách ly ngay.
Để phòng bệnh viêm não, màng não do não mô cầu lây lan trong cộng đồng, Cục Y tế dự phòng và Bộ Y tế khuyến cáo người dân thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Vệ sinh cá nhân: Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, súc miệng, họng bằng các dung dịch sát khuẩn mũi họng thông thường.
Vệ sinh nơi ở, thông thoáng nơi ở, nơi làm việc.
Chủ động tiêm phòng vaccine phòng bệnh cho trẻ.
Khi có biểu hiện sốt cao, đau đầu, buồn nôn và nôn, cứng cổ, cần đến ngay cơ sở y tế để được khám và điều trị kịp thời.
Bệnh viêm não do virus Herpes gây di chứng gì, chữa thế nào?
Bệnh viêm não do virus Herpes simplex là một bệnh n.hiễm t.rùng thần kinh cấp tính, gây hoại tử kèm theo xuất huyết nhu mô não.
Tuy nhiên, nếu được chẩn đoán sớm, điều trị bằng thuốc đặc hiệu và chăm sóc tích cực, người bệnh thường có tiên lượng tốt.
Cứu sống b.é g.ái 6 tháng t.uổi mắc viêm não do virus Herpes
Các bác sĩ Bệnh viện Nhi Đồng TPHCM vừa tiếp nhận một b.é g.ái 6 tháng t.uổi (ở Kiên Giang) trong tình trạng sốt 3 ngày, bỏ bú, co giật nhiều cơn phải sử dụng nhiều loại thuốc cắt cơn co giật, kèm theo là tình trạng rối loạn tri giác dạng ngủ gà.
Ngay sau khi tiếp nhận các bác sĩ đã chỉ định chụp CT Scan sọ não và chọc dò thắt lưng lấy dịch não tủy làm xét nghiệm. Hình ảnh CT Scan có cản quang ghi nhận giảm đậm độ vùng nhu mô não thùy thái dương 2 bên.
Với vị trí tổn thương não, kết hợp bệnh cảnh lâm sàng hiện tại của bé, các bác sĩ đã nghĩ nhiều đến một tác nhân virus gây bệnh hay gặp là Herpes virus (còn được viết tắt là HSV). Kết quả xét nghiệm PCR HSV trong dịch não tủy của bé là dương tính. Đây là xét nghiệm tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định các trường hợp viêm não do HSV, điều này phù hợp với bệnh cảnh lâm sàng và hình ảnh CT sọ não của bệnh nhi.
Sau 2 tuần điều trị tích cực với thở máy và sử dụng nhiều chế phẩm thuốc, trong đó duy trì thuốc Acyclovir truyền tĩnh mạch đóng vai trò quan trọng, bệnh nhi đã được cai máy thở.
Hiện tại bé đã thở khí trời, bú tốt hơn, kết quả PCR HSV đã âm tính, dự kiến xuất viện trong thời gian tới. Bé sẽ tiếp tục được tái khám để theo dõi các dấu chứng thần kinh và tình trạng phát triển tâm thần – vận động về sau.
Bệnh viêm não do virus Herpes simplex là một bệnh n.hiễm t.rùng thần kinh cấp tính, gây hoại tử kèm theo xuất huyết nhu mô não.
Bệnh viêm não do virus Herpes cần phát hiện sớm
Viêm não do virus herpes xảy ra quanh năm nhưng bệnh thường gặp vào mùa xuân – hè. Nguyên nhân của viêm não herpes thường do sự tái hoạt của virus herpes đã nằm sẵn trong cơ thể. 90% những người trưởng thành đều mang virus này trong cơ thể. Tuy nhiên phải có những điều kiện thuận lợi thì virus này mới có thể bùng phát như sốt, phơi nắng, căng thẳng tâm lý, phẫu thuật, k.inh n.guyệt….
Virus này thường xâm nhập qua đường mũi, họng, đi theo dây thần kinh vào nằm trong hạch. Nếu được kích hoạt, virus này sẽ đi ngược theo dây thần kinh khứu giác lên thùy thái dương trên não.
Bệnh thường khởi phát đột ngột, cấp tính bằng sốt cao, đau đầu, sau đó xuất hiện co giật, thay đổi tính cách, mất trí nhớ và hôn mê. Các dấu hiệu thần kinh khu trú gợi ý tổn thương thùy thái dương và thùy trán não. Viêm não có thể đi kèm viêm màng não với các triệu chứng nôn, cứng gáy.
Có thể để lại di chứng cho người bệnh
Khoảng 30-60% bệnh nhân không điều trị thuốc đặc hiệu sẽ diễn tiến đến t.ử v.ong. Nếu phát hiện sớm, điều trị bằng thuốc đặc hiệu ngay thì có thể cứu sống được và tỷ lệ di chứng cũng ít hơn.
Ở những trường hợp sống sót, bệnh nhân từ từ tỉnh lại, nhưng vẫn còn rối loạn tâm thần và tổn thương thần kinh kéo dài.
Di chứng thường gặp là có những động tác bất thường, yếu liệt chi, gồng vặn người từng cơn, tăng tiết nước bọt, vã mồ hôi, nói khó hoặc không nói được, không viết được, rối loạn chức năng trí tuệ nhiều mức độ.
Khi thấy trẻ có biểu hiện sốt cao, buồn nôn, nôn khan, co giật cần đưa đi khám ngay.
Hiện nay, viêm não do virus Herpes là bệnh viêm não virus duy nhất có thuốc đặc trị, đó là acyclovir. Ngoài ra, bệnh nhân cần được hạ nhiệt, chống co giật, phù não, điều chỉnh rối loạn nước và điện giải, dinh dưỡng đầy đủ.
Vật lý trị liệu cần được tiến hành sớm khi bệnh nhân ổn định lâm sàng hoặc khi phát hiện có di chứng. Bệnh nhân cần được tiếp tục theo dõi sau khi xuất viện để phát hiện di chứng não.
Tuy vậy, bệnh chưa có vaccine phòng bệnh nên biện pháp ngừa bệnh tốt nhất vẫn là ăn uống hợp vệ sinh, giữ sạch mũi họng, nhất là với t.rẻ e.m. Khi thấy có biểu hiện sốt cao, buồn nôn, nôn khan, co giật một bên tay hoặc chân, co giật nửa người cần đi khám ngay tại cơ sở y tế để được thăm khám và chữa trị kịp thời.