Nếu như trước đây đái tháo đường là bệnh thường gặp ở người cao t.uổi thì hiện nay có nhiều người trẻ mắc đái tháo đường hơn và ngày càng có nhiều người mắc căn bệnh này.
Gia tăng số người mắc đái tháo đường
Càng ngày càng có nhiều người béo phì, thừa cân do vậy tỷ lệ người mắc đái tháo đường gia tăng. Trong tương lai, số lượng bệnh nhân mắc đái tháo đường sẽ tăng dần vì đó là xu hướng tất yếu. Theo xu hướng phát triển, ngày càng có nhiều người béo phì, thừa cân đặc biệt là giới trẻ do lối sống thiếu khoa học, lười vận động. Những người có nguy cơ mắc đái tháo đường là những người có chỉ số BMI từ 23 trở lên (hơi thừa cân, béo phì).
Ngoài ra, còn có một số đối tượng nguy cơ cao bao gồm:
– Có bố, mẹ mắc đái tháo đường thường con cũng sẽ có nguy cơ mắc đái tháo đường. Các trường hợp thế hệ cận kề (bố hoặc mẹ) sẽ làm gia tăng tỷ lệ đái tháo đường ở con lên tới 15-20%. Trong trường hợp cả bố và mẹ đều mắc đái tháo đường có thể làm tăng 40-50% nguy cơ mắc bệnh ở con cái. Tuy nhiên không phải trường hợp nào bố, mẹ mắc đái tháo đường con cũng mắc đái tháo đường.
– Người có t.iền sử mắc các bệnh lý liên quan đến rối loạn chuyển hóa như: mỡ m.áu, tăng huyết áp…
Tỷ lệ người mắc đái tháo đường ngày càng tăng do số người thừa cân, béo phì ngày càng nhiều.
– Với phụ nữ mang thai đã có t.iền sử đái tháo đường thai kỳ trong quá trình mang thai cần lưu ý tầm soát và thăm khám kỹ hơn. Những người đang mắc đái tháo đường sau đó mang thai hoặc đang mang thai mắc đái tháo đường cần kiểm soát đường huyết tốt để tránh các biến chứng nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi.
Do vậy, những đối tượng có nguy cơ mắc đái tháo đường cần tầm soát định kỳ đái tháo đường để phát hiện bệnh sớm.
Đái tháo đường có nguy hiểm không?
Đái tháo đường là bệnh lý mạn tính diễn biến âm thầm, khi người bệnh có các biểu hiện, triệu chứng thì bệnh thường ở giai đoạn nặng. Kèm theo đó, người bệnh đái tháo đường kiểm soát đường huyết không tốt có thể dẫn tới các biến chứng nguy hiểm.
Người bệnh đái tháo đường cần tuân thủ chế độ điều trị để phòng ngừa các biến chứng.
Các biến chứng đái tháo đường thường gặp là:
– Trường hợp nhẹ: chuột rút, chân tay tê bì, nhìn mờ…
– Biến chứng nặng: suy tim, suy thận
– Một số trường hợp nặng hơn nữa là biến chứng n.hiễm t.rùng hoặc biến chứng bàn chân đái tháo đường.
Điều đáng nói, người bệnh đái tháo đường thường có tâm lý chủ quan, không thăm khám định kỳ hoặc thấy bệnh có dấu hiệu ổn định là tự ý ngừng thuốc, mua các loại thuốc không rõ nguồn gốc để sử dụng. Người bệnh đái tháo đường cần biết, đây là bệnh lý mạn tính, không thể điều trị khỏi và cần chung sống với bệnh cả đời. Tuy nhiên, người bệnh chỉ cần tuân thủ điều trị của bác sĩ thì bệnh có thể ổn định suốt đời. Việc sử dụng các loại thuốc không rõ nguồn gốc để chữa đái tháo đường có thể gây ra các biến chứng như suy tim, suy thận, khiến sức khỏe của người bệnh ảnh hưởng nặng nề.
Ngủ ít có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường ở phụ nữ
Phụ nữ không ngủ đủ giấc có thể bị tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường, những nguy cơ này thậm chí còn rõ rệt hơn ở phụ nữ sau mãn kinh.
Đây là kết quả nghiên cứu mới được đăng trên Tạp chí Diabetes Care.
Theo các nhà khoa học tại Đại học Columbia (Mỹ), việc rút ngắn giấc ngủ chỉ 90 phút đã làm tăng tình trạng kháng insulin ở những phụ nữ vốn đã quen với ngủ đủ giấc. Đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy ngay cả tình trạng thiếu ngủ nhẹ kéo dài trong 6 tuần cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường.
Trưởng nhóm nghiên cứu Marie-Pierre St-Onge, giám đốc Trung tâm nghiên cứu giấc ngủ và sinh học tại Đại học Columbia ở New York (Mỹ), cho biết: “Trong suốt cuộc đời của mình, phụ nữ phải đối mặt với nhiều thay đổi trong thói quen ngủ do sinh con, nuôi con và mãn kinh. Và nhiều phụ nữ cho biết họ không ngủ đủ giấc.”
Trong nghiên cứu, St-Onge và các đồng nghiệp đã lựa chọn 38 phụ nữ khỏe mạnh, 11 người trong số đó đã trải qua thời kỳ mãn kinh. Tất cả phụ nữ thường xuyên ngủ ít nhất 7 giờ mỗi đêm.
Theo các nhà khoa học, thời lượng ngủ được khuyến nghị để có sức khỏe tối ưu là từ 7 – 9 giờ, nhưng khoảng 1/3 người Mỹ ngủ ít hơn mức này.
Đối tượng nghiên cứu được yêu cầu tham gia vào 2 giai đoạn khác nhau của nghiên cứu, theo thứ tự ngẫu nhiên, bao gồm: Họ được yêu cầu duy trì giấc ngủ đầy đủ thường xuyên trong một giai đoạn, nhưng giai đoạn tiếp sau đó thì họ được yêu cầu trì hoãn giờ đi ngủ khoảng 1,5 giờ, dẫn tới rút ngắn tổng thời gian ngủ xuống còn khoảng 6 giờ. Mỗi giai đoạn thử nghiệm kéo dài 6 tuần.
Ngủ ít có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường ở phụ nữ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc cắt giảm giấc ngủ 90 phút trong 6 tuần làm tăng nồng độ insulin lúc đói lên hơn 12% tính chung cho các đối tượng, và 15% ở phụ nữ t.iền mãn kinh. Tình trạng kháng insulin tăng gần 15% tính chung tất cả đối tượng và hơn 20% ở phụ nữ sau mãn kinh.
Theo nhóm nghiên cứu, lượng đường trung bình trong m.áu vẫn ổn định đối với tất cả đối tượng nghiên cứu trong suốt thời gian nghiên cứu, nhưng những thay đổi về tình trạng kháng insulin có thể khiến lượng đường trong m.áu tăng về lâu dài.
Mặc dù mỡ bụng tăng là nguyên nhân chính gây kháng insulin, nhưng nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng tác động của việc mất ngủ đối với tình trạng kháng insulin không liên quan đến bất kỳ sự gia tăng chất béo nào.
“Thực tế là chúng tôi thấy những kết quả này không phụ thuộc vào bất kỳ thay đổi nào về lượng mỡ trong cơ thể, một yếu tố nguy cơ đã biết đối với bệnh đái tháo đường type 2. Điều này cho thấy tác động của việc giảm giờ ngủ đối với các tế bào sản xuất insulin và quá trình trao đổi chất. Tiếp theo, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu thêm để xác định xem liệu giấc ngủ ngon hơn có giúp cải thiện việc kiểm soát lượng đường trong m.áu và khả năng chuyển hóa glucose hay không” – nhóm nghiên cứu cho biết thêm.