Ăn gừng hay riềng tốt hơn?

Gừng và riềng cùng họ song vị cay, tính nóng ở riềng ít hơn nên hầu hết mọi người ăn được, trừ phụ nữ mang thai.

Bác sĩ Lê Quang Hào, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết gừng và riềng đều là gia vị và bài thuốc có ích cho sức khỏe, song mỗi loại đều có giá trị dinh dưỡng riêng.

Củ riềng thường dùng phần củ, hạt, lá. Thân rễ của riềng có mùi hắc, thơm và vị cay, nóng, dùng làm gia vị nấu giả cầy, mắm cá hoặc nấu canh cua, canh cá. Riềng làm tăng hương vị cho các món ăn, cung cấp dồi dào các chất natri, sắt, chất xơ, vitamin A, C và flavanoid…

Còn củ gừng làm gia vị chế thực phẩm như xào thịt bò, thịt trâu, thịt thú rừng, thịt vịt…, nấu các loại rau cải tính lạnh, nấu các loại thức ăn tanh lạnh như cá, cua, ốc, hến, ba ba…, tẩy bóng cá, pha nước chấm cho cay thơm, làm mứt, trà uống. Lá dùng kho, nấu canh cá đồng…Trong gừng còn chứa tinh dầu 2-3%, nhựa dầu 5%, dầu mỡ 3,7%, tinh bột, chất cay…

Theo lương y Bùi Đắc Sáng, các quý ông muốn tăng khả năng giường chiếu cũng nên dùng, tăng lượng tinh binh. Củ riềng có tác dụng chống co thắt do hỗ trợ giảm đờm, giãn phế quản để giảm mức độ hen suyễn. Thảo dược này cũng có lợi trong việc làm giảm ho và đau họng, tiểu chảy, khó tiêu hay bệnh về đường tiêu hóa.

Còn gừng giúp kháng viêm, tiêu đờm, giúp tiêu hóa tốt, trị đau bụng đi ngoài, thổ tả…Gừng có tác dụng như một chất pha loãng m.áu và giảm huyết áp tức thì. Bạn có thể thêm một ít mật ong vào nước gừng để làm tăng hương vị. Nước gừng còn có tác dụng ngăn ngừa các cơn đau như đau răng, đau nửa đầu, xoa dịu những cơn đau khớp, giảm sưng, viêm ở những người mắc bệnh tuyến giáp hay viêm khớp.

“Tuy nhiên, củ riềng vị cay, vị nhiệt và tính nóng ít hơn gừng, còn gừng lại là gia vị phù hợp cho nhiều món ăn đa dạng hơn riềng”, bác sĩ Hào nhấn mạnh.

Củ riềng (bên trái) và củ gừng (bên phải). (Ảnh: Eastmeets kitchen)

Ngoài ra, hầu hết mọi người đều ăn được riềng, trừ phụ nữ có thai. Bệnh nhân có thể ăn được riềng, kể cả bệnh nhân ung thư vì riềng có chống được lão hóa, tăng cường sức khỏe.

Riêng gừng với tính nóng nhiệt cao nên những người có tạng nóng, hay lở miệng, táo bón, người nhiều mồ hôi hoặc đang ra mồ hôi thì không nên ăn nhiều. Lương y Sáng cho biết, ăn nhiều gừng trong thời gian lâu có thể bị toét mắt, chảy nước mắt sống.

Ngoài ra, bạn nên sử dụng đúng từng bộ phận của gừng như lá gừng, gừng tươi, vỏ gừng với liều lượng phù hợp cho từng loại bệnh để đạt hiệu quả phòng trị cao nhất.

Lương y Sáng gợi ý một số món ăn, bài thuốc từ củ gừng và riềng như sau:

Đối với riềng, bạn có thể dùng lá và củ riềng thái lát để kho cá hoặc tán bột, uống 6-10 g một lần, ngày 3 lần. Người bị đau bụng, lạnh dạ, nôn mửa, tiêu chảy dùng riềng ấm, gừng khô, củ gấu chia lượng bằng nhau, tán bột, uống 6 g một lần ngày 3 lần.

Người bị chướng bụng, đau xóc hai bên sườn dùng riềng, thạch xương bồ, hương phụ lượng bằng nhau rồi tán bột mịn, uống 8 g một lần sắc với nước gừng và muối uống ba lần trên ngày. Hạt riềng tán bột, uống 6-10 g một lần, ngày ba lần chữa rét cơn do khí lạnh rừng, không tiêu, buồn nôn.

Đối với gừng chữa nóng, cảm lạnh, cảm gió hoặc sốt, bạn dùng 7 lát gừng tươi, 7 củ hành củ và một bát nước sắc lên uống nóng, đắp chăn cho ra mồ hôi. Đối với cảm ho nhiều đàm, khó thở có thể nấy sôi kỹ 7 lát gừng tươi, một thìa trà tầu, một qua chanh tươi vắt nước pha vào thuốc, một thìa rượu mạnh và một thìa mật ong, sắc thành thuốc uống

Người bị sốt rét, nóng lạnh, ho có đờm dùng gừng nướng kỹ, gọt sạch, thái miếng, ngậm nuốt nước. Hay người ho lâu không dứt, họ có đờm thì dùng gừng giã dập, chưng với mật ong để ngậm. T.rẻ e.m ho lâu ngày không khỏi dùng 200 g gừng tươi nấu nước tắm là khỏi… Hoặc dùng một miếng gừng, nhai ngậm nuốt dần tránh gió độc khi ra ngoài sáng sớm.

Nguồn: VnExpress

Thành phần tưởng vô dụng trong rau, quả lại phòng được ung thư

Nhiều người cho rằng chất xơ là thành phần vô tích sự của thực phẩm, vì hầu hết không có giá trị dinh dưỡng.

Ăn nhiều chất xơ giúp giảm nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng, ung thư vú.

Tuy nhiên khi chất xơ giúp việc bài tiết phân dễ dàng, từ đó giúp thải độc tố ra khỏi cơ thể, tránh được nguy cơ ung thư đại trực tràng.

Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, chất xơ được định nghĩa như là phần dự trữ và hình thành tế bào polysacharid của thực vật, đặc biệt có nhiều trong trái cây, rau, ngũ cốc còn nguyên cám, các hạt họ đậu. Các nguồn này đều chứa chất xơ tan và không tan.

Lượng chất xơ trong rau khoảng 0,3-3,5% tùy loại rau. Mọi người thường ít quan tâm đến chất xơ trong bữa ăn hàng ngày trong khi chất xơ đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khỏe con người.

Hiện nay người ta đã thấy rõ vai trò của chất xơ đối với việc làm giảm nguy cơ mắc ung thư đại tràng thông qua các vi khuẩn có lợi tại ruột tạo ra các chất ức chế sự phát triển của tế bào ung thư và giúp tăng bài xuất các chất có khả năng gây ung thư ra khỏi cơ thể.

Theo Bác sĩ Nguyễn Văn Tiến, Viện Dinh dưỡng, thoáng qua thì thấy chất xơ là thành phần vô tích sự của thực phẩm, vì hầu hết không có giá trị dinh dưỡng. Nhưng nó được coi là thực phẩm chức năng.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, chất xơ được thừa nhận có vai trò quan trọng trong điều trị và phòng ngừa những chứng bệnh mãn tính như bệnh tim mạch, thừa cân béo phì, đái tháo đường, táo bón, ung thư…

Chuyên gia phân tích, chất xơ có tác dụng ngăn ngừa sự phát triển tế bào ung thư. Lý do vì nó làm giảm độc tính của tác nhân gây ung thư bằng cách hòa loãng hay vô hiệu hóa tác nhân này, làm giảm thời gian chất bã di chuyển trong ruột, làm giảm độ axít của phân bã và thay đổi môi trường vi trùng trong ruột. Việc giảm thời gian ruột già tiếp xúc với các thành phần độc có khả năng gây ung thư trong các thức ăn đóng vai trò quan trọng.

Khi kết hợp với nước, chất xơ hút nước và nở to làm cho phân mềm và khối phân to ra hơn trước khiến vách thành ruột càng bị kích thích mạnh, làm tăng nhu động ruột, giúp cho việc bài tiết phân được dễ dàng.

Việc dễ dàng đi ngoài giúp thải dễ dàng các độc tố và giảm độ đậm đặc của các chất độc này. Điều này giúp tránh được nguy cơ ung thư đại tràng.

Với bệnh ung thư vú, chất xơ không hòa tan trong nước làm giảm lượng estrogen trong m.áu. Vì vậy, chất xơ có thể giảm nguy cơ mắc ung thư vú.

Theo bảng Nhu cầu Dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam thì nhu cầu chất xơ tối thiểu cần là 18-20g/người/ngày. Ở một số nước có khuyến nghị nhu cầu chất xơ cao hơn như Nhật bản là 20-25g/người/ngày, Mỹ khoảng 28-30g/người/ngày…

Nguồn cung cấp chất xơ cho cơ thể chủ yếu từ thức ăn nguồn thực vật như trong rau các loại khoảng 0,7-2,8%, trong hoa quả chín lượng xơ ít hơn (0,5 – 1,3%), khoai, sắn, măng và các loại hạt (gạo, đậu đỗ, ngô, lúa mì…) có lượng xơ cao (0,7 – 4,5%).

Một số lưu ý khi dùng chất xơ:

Nên sử dụng chất xơ trong thiên nhiên hơn chất xơ chế biến.

Không nên ăn chất xơ nấu quá nhừ vì nó chuyển thành dạng bột đường. Vì vậy nếu có thể ăn rau vừa chín tới, đặc biệt rau sống và rau còn giòn.

Rửa trái cây và rau trước khi dùng để loại bỏ hóa chất bảo vệ thực vật. Tốt nhất ăn trái cây không nên gọt vỏ vì lớp này có nhiều chất xơ không hòa tan trong nước.

Giữa hai bữa ăn, nên dùng trái cây khô khi đói.

Chất xơ trong khẩu phần ăn tăng từ từ để bộ máy tiêu hóa thích nghi được với món ăn khó tiêu này và tránh đầy bụng.

Uống nhiều nước, vì chất xơ hút khá nhiều nước trong ruột.

Theo ngaynay

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *