Ung thư gan nguyên phát đứng hàng đầu trong các loại ung thư thường gặp tại Việt Nam hiện nay.
Chia sẻ với PV Người Đưa Tin Pháp luật, bác sĩ chuyên khoa 2 Nguyễn Văn Tiến, Trưởng khoa Ngoại 1, bệnh viện Ung Bướu TP.HCM cho biết, hiện bệnh ung thư gan ngày càng gia tăng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng con người.
Do đó, để hạn chế tối đa mắc bệnh này, nhất là ung thư gan nguyên phát, cần phải có lối sống lành mạnh.
Theo các bác sĩ Tiến, ung thư gan nguyên phát là ung thư bắt nguồn từ gan, khác với ung thư gan thứ phát là loại ung thư từ một cơ quan khác của cơ thể di căn đến gan.
Trên thế giới, ung thư gan nguyên phát đứng hàng thứ 5 ở nam giới và thứ 7 ở nữ giới trong các loại ung thư thường gặp và đứng hàng thứ 3 về nguyên nhân gây t.ử v.ong do ung thư.
Tại Việt Nam, tỉ lệ nhiễm viêm gan siêu vi B trong dân số khá cao (15-20%) là nguyên nhân chính khiến ung thư gan nguyên phát, đứng hàng đầu trong các loại ung thư thường gặp ở cả nam và nữ.
Hầu hết những bệnh nhân ung thư gan có ghi nhận một hoặc vài yếu tố nguy cơ sau: Xơ gan, nhiễm viêm gan siêu vi B hoặc viêm gan siêu vi C lâu dài, ăn phải một số độc chất hoặc một số độc tố, hút t.huốc l.á, viêm nhiễm đường ruột kéo dài, nhiễm ký sinh trùng…
Do đó, để phòng ngừa, hạn chế tối đa căn bệnh hiểm nguy này, bác sĩ Nguyễn Văn Tiến đưa ra những yếu tố sau:
Tránh tiếp xúc và điều trị nhiễm virus viêm gan B và C: Yếu tố nguy cơ đáng kể nhất của ung thư gan là nhiễm virus viêm gan B (HBV) và virus viêm gan C (HCV) mãn tính.
Những virus này có thể lây từ người này sang người khác khi dùng chung kim tiêm bị nhiễm (chẳng hạn như sử dụng m.a t.úy), qua quan hệ t.ình d.ục không được bảo vệ và mẹ truyền sang con trong mang thai.
Do đó, một số bệnh nhân ung thư gan có thể tránh được bằng cách không dùng chung kim tiêm và bằng cách thực hiện quan hệ t.ình d.ục an toàn hơn (chẳng hạn như luôn sử dụng b.ao c.ao s.u).
Bác sĩ khuyến cáo, tất cả t.rẻ e.m cũng như người lớn có nguy cơ mắc bệnh, nên chủng ngừa HBV để giảm nguy cơ viêm gan và ung thư gan. Hiện tại, không có thuốc chủng ngừa cho HCV.
Việc ngăn ngừa nhiễm HCV, cũng như nhiễm HBV ở những người chưa được chủng ngừa, dựa trên sự hiểu biết về cách thức lây lan những trường hợp này xảy ra. Những người có nguy cơ cao mắc HBV hoặc HCV nên được xét nghiệm để có thể theo dõi bệnh gan và điều trị nếu cần.
Ung thư gan là nguyên nhân gây t.ử v.ong hàng đầu trong các loại ung thư hiện nay tại Việt Nam. (Ảnh minh họa).
Hạn chế sử dụng rượu bia, t.huốc l.á. Uống rượu bia có thể dẫn đến xơ gan, từ đó có thể dẫn đến ung thư gan. Không uống rượu hoặc uống rượu điều độ có thể giúp ngăn ngừa ung thư gan.
Vì hút t.huốc l.á cũng làm tăng nguy cơ ung thư gan nên không hút thuốc cũng sẽ ngăn ngừa một số bệnh ung thư này. Nếu bạn hút thuốc, bỏ t.huốc l.á sẽ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư này cũng như nhiều bệnh ung thư khác và các bệnh đe dọa tính mạng.
Giữ cân nặng hợp lý cũng là cách giúp ngăn ngừa mắc bệnh ung thư gan.
Hạn chế tiếp xúc với hóa chất gây ung thư: Thay đổi cách bảo quản một số loại ngũ cốc ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới có thể làm giảm tiếp xúc với các chất gây ung thư như aflatoxin.
Nên làm: Cố gắng giảm cân nếu bạn thừa cân. Mặc quần áo bảo hộ và khẩu trang nếu bạn làm công việc tiếp xúc với hóa chất độc hại. Cố gắng giảm lượng rượu – tránh uống nhiều hơn 14 đơn vị mỗi tuần. Cố gắng bỏ hút thuốc. Điều trị các bệnh làm tăng nguy cơ ung thư gan.
Ung thư đường mật khó phát hiện, dễ t.ử v.ong
Ung thư đường mật ít gặp hơn ung thư gan, thường phát hiện khá trễ, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị và thời gian sống còn của người bệnh.
Ảnh minh họa
Tiến sĩ Võ Văn Hùng, Phó Khoa Tiêu hoá Gan Mật, Bệnh viện Bình Dân, cho biết ung thư đường mật tiên lượng rất xấu, đặc biệt là ung thư vùng rốn gan. Nếu không điều trị, bệnh nhân t.ử v.ong do suy gan và di căn chỉ trong vòng 3-6 tháng.
Tại Mỹ, mỗi năm có khoảng 8.000 trường hợp ung thư đường mật. Tỷ lệ sống sau năm năm của người ung thư đường mật trong gan là 15,9% và ung thư đường mật ngoài gan là 27,8%.
Theo bác sĩ Hùng, hiện nay việc phát hiện sớm ung thư đường mật còn rất khó khăn, đặc biệt là khi có kết hợp sỏi đường mật. Đa số bệnh nhân khi phát hiện đã có xâm lấn các mạch m.áu quan trọng của gan, gây khó khăn cho phẫu thuật triệt để cắt bỏ khối ung thư.
Một số yếu tố thuận lợi của ung thư đường mật là n.hiễm t.rùng mạn tính, nhiễm ký sinh trùng, tiếp xúc các hóa chất dùng trong công nghiệp cao su, người có nang đường mật, xơ gan bẩm sinh, viêm đường mật xơ hóa, viêm loét đại tràng. Ung thư đường mật trên bệnh nhân viêm loét đại tràng có khuynh hướng diễn tiến trầm trọng hơn.
Vàng da có thể là dấu hiệu của ung thư đường mật hoặc các bệnh lý lành tính khác như sỏi mật, xơ gan, viêm gan, tán huyết… Vàng da là triệu chứng phổ biến nhất, xuất hiện ở khoảng 90% các trường hợp ung thư đường mật. Ngoài ra bệnh nhân có thể đau bụng, đôi khi vào viện vì sốt n.hiễm t.rùng đường mật, ngứa toàn thân, thiếu m.áu, chán ăn sụt cân. Trường hợp muộn, người bệnh có thể báng bụng do có dịch trong bụng.
“Hiện nay vẫn chưa có kỹ thuật chẩn đoán nào chính xác 100%, u vẫn có thể bị nhầm là sỏi hay bùn mật trên các chẩn đoán hình ảnh”, bác sĩ Hùng phân tích.
Siêu âm là phương tiện chẩn đoán đầu tiên đối với bệnh nhân vàng da. Biểu hiện chính là hình ảnh đường mật bị giãn, siêu âm rất khó nhận biết vị trí của khối u. Chụp cắt lớp điện toán CT đ.ánh giá được vị trí u, mức độ xâm lấn của u vào gan và di căn, nhưng không thể phát hiện u nhỏ hơn một cm.
Chụp cộng hưởng từ mật tụy (MRCP) có thể chẩn đoán u đường mật. Đây là phương tiện chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn, tránh được tia X, cho phép quan sát được toàn bộ hình ảnh đường mật, tuy nhiên đôi khi khó phân biệt giữa u và sỏi hoặc bùn mật.
Bác sĩ có thể chọn các kỹ thuật nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP), chụp đường mật xuyên gan qua da (PTC) và siêu âm qua nội soi (EUS), nhất là khi cần xác định bản chất mô học của u. Noài ra, bác sĩ sẽ sinh thiết giúp xác định bản chất mô học của tế bào khối u, với nhiều phương pháp như chọc kim nhỏ qua da, qua nội soi mật tụy ngược dòng, qua siêu âm nội soi… hoặc tìm tế bào ung thư trong dịch mật.
Điều trị ung thư đường mật
Phẫu thuật
Phẫu thuật triệt để là phương pháp duy nhất cải thiện thời gian sống còn của bệnh nhân. Tuy nhiên trên nửa số trường hợp khi phẫu thuật phát hiện có di căn phúc mạc hoặc di căn xa, dù các phương tiện chẩn đoán trước mổ cho thấy còn khả năng làm phẫu thuật triệt để.
Do bản chất xâm lấn tại chỗ và do vị trí quan trọng của vùng rốn gan – chỗ chia của hai ống gan, khả năng phẫu thuật điều trị triệt để ít và khó thực hiện. Chỉ 15-30% trường hợp ung thư đường mật vùng rốn gan có thể cắt bỏ được. Đa số trường hợp ngoài việc cắt bỏ đường mật có u, bác sĩ phẫu thuật phải cắt luôn phần gan có u xâm lấn.
Phẫu thuật điều trị ung thư đường mật là phẫu thuật phức tạp, chỉ được thực hiện tại một số trung tâm ngoại khoa lớn của Việt Nam.
Trong những trường hợp không thể cắt bỏ u, bác sĩ đặt ống thông (stent) đường mật qua chỗ hẹp là tốt nhất, giúp mật lưu thông từ gan xuống ruột và bệnh nhân sẽ giảm vàng da. Phương pháp dẫn lưu mật này giúp cải thiện chất lượng sống, giảm vàng da, ăn uống ngon miệng hơn nhờ có dịch mật tiêu hóa thức ăn.
Hóa trị
Hiện nay có một số thuốc mới được dùng điều trị ung thư đường mật nhưng tỷ lệ đáp ứng còn thấp, nhất là các bệnh nhân đã quá chỉ định phẫu thuật, không còn cắt được u. Trong một số nghiên cứu, điều trị bằng hóa trị sau đặt ống dẫn lưu giúp cải thiện thời gian sống trung bình từ 8 tháng lên 28 tháng.
Phòng ung thư đường mật
Theo bác sĩ Hùng, không thể dự phòng hoàn toàn ung thư đường mật, chỉ có thể tránh các yếu tố thuận lợi như tránh tiếp xúc hóa chất độc hại, điều trị các bệnh n.hiễm t.rùng mạn tính, bệnh ký sinh trùng như giun sán, bệnh sỏi mật, viêm loét đại tràng, các bệnh đường mật khác như nang đường mật, xơ gan, viêm đường mật xơ hóa…
Nên khám sức khỏe định kỳ hàng năm, đặc biệt người trên 50 t.uổi, lứa t.uổi thường gặp ung thư đường mật. Trường hợp đau vùng bụng trên bên phải, nước tiểu vàng sậm, vàng da, vàng mắt nên đến ngay các trung tâm y tế để phát hiện bệnh sớm.