Sốt 3 ngày âm ỉ, đến ngày thứ 4 sốt cao liên tục không đỡ, b.é t.rai 3 t.uổi vào viện được chẩn đoán mắc bệnh Kawasaki. Đây là một bệnh lý nguy hiểm thường gặp ở trẻ dưới 5 t.uổi và có thể gây biến chứng lên tim mạch, thậm chí t.ử v.ong.
Theo chia sẻ của gia đình, bé Đ.V.N, 3 t.uổi, ở Hà Nội bị sốt cao liên tục mấy ngày liền không đỡ. Trước đó, gia đình khi thấy bé sốt cũng đã đưa đi khám ở một phòng khám và được kê đơn điều trị bằng kháng sinh zithromax và mekocetin 3 ngày, sau dùng Augmentin 1 ngày, bé xuất hiện nổi ban đỏ ở lòng bàn tay, bàn chân, mũi.
Sang ngày thứ 4, bé vẫn sốt cao không hạ, nhiệt độ cao nhất 38,5 – 39 độ C. Khi dùng thuốc không đỡ kèm theo nổi hạch ở vùng cổ hai bên khiến trẻ đau và quấy khóc nhiều, gia đình mới đưa vào BVĐK MEDLATEC cơ sở 2 khám.
Các bác sĩ đã thực hiện thăm khám, xét nghiệm cận lâm sàng, siêu âm và nội soi tai – mũi – họng cho thấy số lượng bạch cầu tăng, niêm mạc họng nề đỏ, thành sau họng có đọng dịch.
Trên hình ảnh siêu âm vùng cổ, góc hàm hai bên có nhiều hạch tăng kích thước, cấu trúc tủy vỏ rõ, hạch lớn nhất kích thước 20×13mm. Bác sĩ chẩn đoán bé mắc bệnh Kawasaki. Hiện tại sau điều trị, trẻ đã hết sốt, các nốt hồng ban giảm đáng kể, chơi ngoan, ăn uống được và tiếp tục theo dõi.
Bàn tay của bé nổi nhiều ban đỏ. Ảnh BS
BS Trần Thị Kim Ngọc – Chuyên khoa Nhi (BVĐK MEDLATEC) cho biết, bệnh Kawasaki là tình trạng sốt cấp hay kèm phát ban toàn thân ở trẻ nhỏ, với đặc điểm có viêm lan tỏa của hệ mạch m.áu nhỏ và vừa trên toàn cơ thể, bao gồm cả động mạch vành cung cấp m.áu cho cơ tim.
Đây là bệnh lý nguy hiểm thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 5 t.uổi. Bệnh Kawasaki có thể chưa nghiêm trọng ngay nhưng gây biến chứng lên tim mạch. Các biểu hiện tim mạch hiểm nghèo như viêm tim, phình giãn động mạch vành gây đột tử, nhồi m.áu cơ tim ở trẻ nhỏ hay hẹp tắc và suy vành mạn tính về sau có thể gây t.ử v.ong.
Theo bác sĩ, nguyên nhân dẫn tới căn bệnh này hiện nay chưa được xác định. Nhiều người lo lắng về bệnh này có tính lây truyền nhưng hiện chưa có một bằng chứng xác thực nào cho thấy bệnh này lây truyền. Bệnh có thể do nhiễm khuẩn, nhiễm độc từ virus, vi khuẩn hoặc các yếu tố về chủng tộc có liên quan bệnh hay gặp ở t.rẻ e.m châu Á nhiều hơn các châu khác. Ngoài ra, yếu tố môi trường có thể là tác nhân gây bệnh.
Trẻ mắc bệnh Kawasaki cần được điều trị sớm. Ảnh TL
Để tránh những biến chứng, khi trẻ có những biểu hiện bất thường, đặc biệt là sốt kéo dài cần đưa tới cơ sở y tế để khám, điều trị kịp thời. Trẻ sẽ được dùng thuốc để ngăn ngừa tổn thương tại vành mạch. Bệnh Kawasaki điển hình có 3 giai đoạn với các biểu hiện sau:
Giai đoạn bệnh (khởi phát cấp tính): Người bệnh có biểu hiện sốt và kéo dài trên 5 ngày, với đặc điểm ít đáp ứng với kháng sinh hay thuốc hạ nhiệt thông thường. Trẻ cũng có thể gặp những thay đổi ở niêm mạc môi miệng như môi đỏ, nứt môi, lở miệng, hồng ban lan tỏa ở hầu họng; Kết mạc mắt hai bên đỏ, không xuất tiết; Nổi hạch vùng cổ; Hồng ban đa dạng chủ yếu ở thân; Đỏ lòng bàn tay, bàn chân;Đau nhiều khớp.
Giai đoạn 2:
Người bệnh có biểu hiện tăng tiểu cầu, tăng m.áu lắng, tróc da và bệnh nhân dần dần hạ sốt. Biểu hiện này thường kéo dài khoảng 2 tuần.
Giai đoạn 3: Giai đoạn hồi phục, các triệu chứng bệnh giảm dần. Lúc này cơ thể trẻ suy yếu cần được bồi dưỡng.
Triệu chứng điển hình nhất của nhồi m.áu cơ tim
Nếu không cấp cứu kịp thời, nhồi m.áu cơ tim nguy cơ t.ử v.ong lên tới 50%. Đáng lo ngại hơn, bệnh có xu hướng trẻ hóa do lối sống sinh hoạt thiếu lành mạnh, không kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ.
Bên cạnh đó, nhiều người chưa nhận biết các dấu hiệu của cơn nhồi m.áu cơ tim dẫn đến việc bỏ lỡ “thời gian vàng” trong điều trị, tăng nguy cơ gây ra biến chứng nghiêm trọng nếu không được cấp cứu kịp thời.
Để phòng ngừa tái phát nhồi m.áu cơ tim, người bệnh nên tuân thủ việc sử dụng thuốc và chế độ ăn uống, sinh hoạt và tập luyện theo chỉ định của bác sĩ.
ThS, BS Vũ Hoàng Vũ – Trưởng khoa Can thiệp tim mạch Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM (BV ĐHYD TP.HCM) cho biết, nhồi m.áu cơ tim là một cấp cứu khẩn trong y khoa, tình trạng tắc nghẽn đột ngột động mạch nuôi tim (còn gọi là động mạch vành) gây thiếu m.áu nuôi tim, tổn thương tế bào cơ tim gây suy tim, rối loạn nhịp tim, đột tử…
Đây là bệnh lý rất nguy hiểm, nếu không cấp cứu kịp thời, nguy cơ t.ử v.ong lên tới 50%. Đáng lo ngại hơn, bệnh có xu hướng trẻ hóa do lối sống sinh hoạt thiếu lành mạnh, không kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ. Bên cạnh đó, nhiều người chưa nhận biết các dấu hiệu của cơn nhồi m.áu cơ tim dẫn đến việc bỏ lỡ “thời gian vàng” trong điều trị, tăng nguy cơ gây ra biến chứng nghiêm trọng nếu không được cấp cứu kịp thời.
Trẻ hóa người bệnh nhồi m.áu cơ tim
BV ĐHYD TP.HCM gần đây tiếp nhận điều trị cho anh Hoàng Minh N. (35 t.uổi, ngụ tại TP.HCM) nhập viện trong tình trạng đau thắt ngực, khó thở, vã mồ hôi. Sau khi thực hiện điện tâm đồ và men tim, các bác sĩ chẩn đoán anh N. bị nhồi m.áu cơ tim cấp, kết quả chụp mạch vành cho thấy một nhánh lớn đã bị tắc.
Các bác sĩ nhanh chóng tiến hành đặt stent động mạch vành. Đây là kỹ thuật tiên tiến, can thiệp mạch để tái tưới m.áu cho vùng cơ tim bị tổn thương. Vì được can thiệp kịp thời, sức khỏe người bệnh hồi phục tốt, tránh được các biến chứng nguy hiểm.
Anh N. cho biết, anh không có t.iền sử bệnh tim mạch nhưng đang theo dõi điều trị đái tháo đường tuýp 2. Khoảng 3 tháng trở lại đây, anh thường xuyên bị căng thẳng trong công việc, ít tập thể dục, ăn uống thất thường. Thỉnh thoảng anh N. có cảm giác đau nặng ngực, khó thở nhưng chủ quan không đi khám và cũng không nghĩ mình có thể bị nhồi m.áu cơ tim.
Nhồi m.áu cơ tim đa phần do xơ vữa động mạch nuôi tim, ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như: co thắt động mạch vành, chấn thương tim, bệnh cơ tim do stress.
ThS, BS Vũ Hoàng Vũ – Trưởng khoa Can thiệp tim mạch BV ĐHYD TP.HCM cho biết, nhồi m.áu cơ tim đa phần do xơ vữa động mạch nuôi tim, ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như: Co thắt động mạch vành, chấn thương tim, bệnh cơ tim do stress.
Các yếu tố nguy cơ của nhồi m.áu cơ tim bao gồm: Hút t.huốc l.á, tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng mỡ m.áu, t.iền sử gia đình có người bị bệnh tim mạch. Một số yếu tố khác cũng làm tăng nguy cơ nhồi m.áu cơ tim như: Giới tính nam, người cao t.uổi, thừa cân, béo phì, lối sống ít vận động… Càng có đồng thời nhiều yếu tố thì khả năng bị nhồi m.áu cơ tim càng cao. Ở người trẻ, lối sống sinh hoạt thiếu lành mạnh, áp lực công việc, chủ quan trong việc kiểm soát các yếu tố nguy cơ cũng làm gia tăng tình trạng nhồi m.áu cơ tim.
Cần điều trị trong thời gian vàng và ngăn ngừa nguy cơ tái phát
Theo ThS, BS Vũ Hoàng Vũ, triệu chứng điển hình nhất của nhồi m.áu cơ tim là đau nặng ngực: Đau giữa ngực, sau xương ức hoặc hơi lệch trái, cảm giác nặng, bóp nghẹt, siết chặt, đè, có khi lan ra tay trái, lên cằm xuống bụng vùng trên rốn. Thời gian đau ngực thường trong khoảng 20 – 30 phút hoặc dài hơn.
Người bệnh có thể kèm vã mồ hôi, khó thở và bất tỉnh. Cũng có người bệnh không đau ngực mà đau bụng vùng trên rốn, đau sau lưng. Các dấu hiệu và triệu chứng của nhồi m.áu cơ tim có thể thay đổi tùy theo t.uổi, giới tính, vùng mạch m.áu bị tổn thương và những bệnh lý khác đi kèm.
ThS, BS Vũ Hoàng Vũ tái khám cho người bệnh.
Người bị nhồi m.áu cơ tim cần được tái lưu thông mạch m.áu nuôi tim càng sớm càng tốt nhằm hạn chế tế bào cơ tim bị tổn thương và hoại tử. Thời gian gian vàng là 48 giờ đầu tiên, nhất là 12 giờ đầu. Chính vì vậy, ngay có dấu hiệu nêu trên, người bệnh cần nhanh chóng đến cơ sở y tế có chuyên khoa tim mạch để được chẩn đoán và can thiệp kịp thời.
ThS, BS Vũ Hoàng Vũ khuyến cáo, tỉ lệ tái phát nhồi m.áu cơ tim trong khoảng từ 10-14%, đặc biệt ở người có nhiều yếu tố nguy cơ, người lớn t.uổi có nhiều bệnh lý đi kèm và người đã bị nhồi m.áu cơ tim nhưng bỏ thuốc, không tuân thủ điều trị.
Do đó để phòng ngừa tái phát nhồi m.áu cơ tim, người bệnh nên tuân thủ việc sử dụng thuốc và chế độ ăn uống, sinh hoạt và tập luyện theo chỉ định của bác sĩ. Mặt khác, người chưa bị nhồi m.áu cơ tim nhưng có yếu tố nguy cơ nên chủ động tầm soát, thăm khám chuyên khoa tim mạch để được chẩn đoán, phòng ngừa biến chứng có thể xảy ra.