Bệnh viện Nhi công bố ca phẫu thuật nang ống mật chủ thứ 1.000

Phẫu thuật nang ống mật chủ được ứng dụng tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ năm 2003. Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm là người đầu tiên ở Việt Nam đã tiến hành phẫu thuật nội soi thường quy.

Các bác sỹ Bệnh viện Nhi Trung ương thực hiện ca phẫu thuật nang ống mật chủ thứ 1.000 cho bệnh nhân nhi. (Ảnh: PV/Vietnamplus)

Sáng 18/11, Bệnh viện Nhi Trung ương tổ chức công bố công bố ca phẫu thuật nang ống mật chủ thứ 1.000.

Bệnh nhân được thực hiện ca phẫu thuật nang ống mật chủ thứ 1.000 tên là Đặng Trần Ngọc Huyền (26 tháng t.uổi), ở Lục Ngạn (Bắc Giang). Trước khi nhập viện, bệnh nhân thường xuyên bị đau bụng. Qua thăm khám, các bác sỹ thấy bệnh nhân có nang ống mật chủ với kích thước nang 4cm. Ca mổ đã diễn ra thành công.

Tiến sỹ Phạm Duy Hiền – Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương kiêm Trưởng khoa Ngoại cho hay nang ống mật chủ là một bệnh lý ngoại nhi bẩm sinh thường gặp. Bệnh đặc trưng bởi tình trạng ống mật chủ giãn thành hình thoi hoặc hình hình cầu mà không có sự bít tắc ở phần thấp ống mật chủ. Bệnh hay gặp ở các nước Châu Á (trong đó có Việt Nam); thường gặp ở trẻ nữ với tỉ lệ nữ/nam là 4/1.

Bệnh có biểu hiện với tam chứng kinh điển như đau bụng, vàng da, sờ thấy khối ở bụng. Bệnh nhân nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời có thể có nhiều biến chứng xảy ra như viêm đường mật, viêm tụy, thủng nang, ác tính hóa… Tuy nhiên, hiện nay, nhờ sự phát triển của sàng lọc sơ sinh, bệnh ngày càng được phát hiện và điều trị sớm.

“Trước kia, mổ mở là phương pháp kinh điển, song kỹ thuật này lại tồn tại nhiều hạn chế như vết mổ dài thẩm mỹ xấu, sang chấn nhiều và hồi phục sau mổ chậm. Và, khi phẫu thuật nội soi ra đời đã đem lại cuộc cách mạng trong điều trị bệnh với nhiều ưu điểm vượt trội,” tiến sỹ Hiền cho hay.

Phẫu thuật này được ứng dụng tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ năm 2003. Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm là người đầu tiên ở Việt Nam đã tiến hành phẫu thuật nội soi thường quy với các trường hợp trẻ bị nang ống mật chủ.

Sau quá trình dài thực hiện, Khoa Ngoại tổng hợp, Bệnh viện Nhi Trung ương đã có nhiều báo cáo trong và ngoài nước về kết quả vượt trội của phẫu thuật nội soi điều trị bệnh so với mổ mở quy ước như giảm đau và sang chấn, kết quả thẩm mỹ vượt trội (đặc biệt ưu điểm ở các trẻ nữ so với vết mổ mở dài trước kia), giảm các biến chứng trong và sau mổ.

Cùng với phương pháp phẫu thuật nội soi, các chuyên gia y tế của Khoa Ngoại (Bệnh viện Nhi Trung ương) đã sáng tạo, cải tiến, ứng dụng công nghệ hiện đại để triển khai thêm kỹ thuật phẫu thuật nội soi Robot từ năm 2013 mang lại nhiều lựa chọn cho các cha mẹ bệnh nhi khi con em họ không may mắc bệnh lý nang ống mật chủ.

Ưu điểm của phẫu thuật nội soi Robot là tăng độ chính xác cho phẫu thuật, giảm sang chấn cho bệnh nhân, kết nối phẫu thuật từ xa tới các trung tâm trong và ngoài nước.

Các năm qua, nhiều bác sỹ trong và ngoài nước như (Thái Lan, Philippines, Nhật Bản, Hoa Kỳ,..) đã lựa chọn bệnh viện Nhi Trung ương là địa chỉ tin cậy để học tập phương pháp phẫu thuật nội soi điều trị bệnh lý nang ống mật chủ.

Cũng trong sáng 18/11, Bệnh viện Nhi Trung ương đưa vào hoạt động phòng mổ tích hợp (Integrated OR) – OR1 mới gồm hệ thống điều khiển tích hợp.

Phòng mổ hiện đại này gồm toàn bộ thiết bị phẫu thuật, bao gồm thiết bị xử lý hình ảnh nội soi, bộ lưu trữ dữ liệu, và các thiết bị ngoại vi như bàn mổ, đèn mổ treo trần, dao điện cao tần đều được thiết kế, sắp đặt phù hợp với mọi nhu cầu sử dụng và có thể được điều khiển từ trạm làm việc đặt trong khu vực vô trùng hoặc ngoài khu vực vô trùng do điều dưỡng chạy ngoài hỗ trợ.

Giáo sư Lê Thanh Hải – Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương cho hay việc đưa vào sử dụng hệ thống phòng mổ trên sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực như chuẩn hóa quy trình phẫu thuật, tăng hiệu suất công việc. Bên cạnh đó, trong quá trình phẫu thuật việc trao đổi thông tin nhóm cũng tốt hơn đồng thời tối ưu hóa luồng công việc; giảm thiểu thời gian phẫu thuật, giảm thời gian chờ giữa các ca phẫu thuật.

Nhờ có ứng dụng của phòng mổ hiện đại này, dữ liệu của từng ca mổ được lưu trữ tại chỗ với hệ thống lưu trữ có độ bảo mật cao. Đặc biệt, với công nghệ hiện nay, khả năng lưu trữ dữ liệu sẽ được thực hiện ở cả hai loại định dạng hình ảnh 2D và 3D cũng như lưu trữ hình ảnh từ các nguồn thu khác nhau./.

Thùy Giang

Theo Vietnamplus

Tự hào là trung tâm lớn trong khu vực phẫu thuật nội soi nang ống mật chủ

Với một nghìn ca nang ống mật chủ được phẫu thuật thời gian qua, Khoa Ngoại, Bệnh viện Nhi Trung ương được đ.ánh giá là trung tâm lớn trong khu vực với nhiều kinh nghiệm trong điều trị bệnh lý này.

Các bác sĩ thực hiện phẫu thuật tại phòng mổ hiện đại.

Thành công với một nghìn ca phẫu thuật nội soi u nang mật chủ

Sáng nay, 18-11, Bệnh viện Nhi Trung ương đã kỷ niệm thành tích ca thứ một nghìn phẫu thuật u nang ống mật chủ nội soi.

Năm 2003, phẫu thuật nội soi nang ống mật chủ được GS,TS Nguyễn Thanh Liêm, nguyên Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương – là người đầu tiên ở Việt Nam đã tiến hành phẫu thuật nội soi thường quy với các trường hợp trẻ bị nang ống mật chủ.

Sau quá trình dài thực hiện, Khoa Ngoại tổng hợp, Bệnh viện Nhi Trung ương đã có nhiều báo cáo trong và ngoài nước về kết quả vượt trội của phẫu thuật nội soi điều trị bệnh so với mổ mở quy ước như giảm đau và sang chấn, giảm các biến chứng trong và sau mổ. Đặc biệt, phương pháp này cho kết quả thẩm mỹ vượt trội.

BS Hiền cho biết, cùng với phương pháp phẫu thuật nội soi, các chuyên gia y tế của Khoa Ngoại, Bệnh viện Nhi Trung ương đã sáng tạo, cải tiến, ứng dụng công nghệ hiện đại để triển khai thêm kỹ thuật phẫu thuật nội soi Robot từ năm 2013 mang lại nhiều lựa chọn cho các cha mẹ bệnh nhi khi con em họ không may mắc bệnh lý nang ống mật chủ. Ưu điểm của phương pháp này là tăng độ chính xác cho phẫu thuật, giảm sang chấn cho bệnh nhân, kết nối phẫu thuật từ xa (telemedicine) tới các trung tâm trong và ngoài nước.

Với những thành công vang dội mà bệnh viện có được, nhiều bác sĩ trong và ngoài nước như Thái Lan, Philipin, Nhật Bản, Hoa Kỳ… đã lựa chọn Bệnh viện Nhi Trung ương là địa chỉ tin cậy để học tập phương pháp phẫu thuật nội soi điều trị bệnh lý nang ống mật chủ.

Theo TS, BS Phạm Duy Hiền, Phó Giám đốc bệnh viện Nhi Trung ương kiêm Trưởng khoa Ngoại,nang ống mật chủ là một bệnh lý ngoại nhi bẩm sinh thường gặp. Bệnh đặc trưng bởi tình trạng ống mật chủ giãn thành hình thoi hoặc hình hình cầu mà không có sự bít tắc ở phần thấp ống mật chủ. Bệnh hay gặp ở các nước Châu Á (trong đó có Việt Nam); thường gặp ở trẻ nữ với tỉ lệ nữ/ nam là 4/1.

Bệnh biểu hiện với tam chứng kinh điển như đau bụng, vàng da, sờ thấy khối ở bụng. Nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp thời có thể có nhiều biến chứng xảy ra như viêm đường mật, viêm tụy, thủng nang, ác tính hóa… Tuy nhiên, hiện nay, nhờ sự phát triển của sàng lọc sơ sinh, bệnh ngày càng được phát hiện và điều trị sớm.

Nếu như trước kia, phương pháp kinh điển là mổ mở khiến cho bệnh nhi có thể gặp nhiều sang chấn, hồi phục sau mổ chậm và vết mổ dài xấu về mặt thẩm mỹ, thì hiện nay với phẫu thuật nội soi đã đem lại cuộc cách mạng trong điều trị bệnh với nhiều ưu điểm vượt trội.

Bệnh nhi được tiếp cận với dịch vụ phẫu thuật đẳng cấp quốc tế

Để giúp các kỹ thuật viên, bác sĩ thực hiện các thao tác phẫu thuật chính xác hơn, có thể hội chẩn từ xa và giảm thiểu thời gian thời gian phẫu thuật, Bệnh viện Nhi Trung ương đã khai trương phòng mổ tích hợp (Integrated OR) – OR1 bao gồm hệ thống điều khiển tích hợp được phát triển bởi KARL STORZ, một đơn vị hàng đầu thế giới trong sản xuất thiết bị nội soi.

Bệnh nhi bốn t.uổi (Bắc Giang) bị bệnh nang ống mật chủ là bệnh nhi đầu tiên được các bác sĩ thực hiện phẫu thuật tại phòng mổ tích hợp này đầu tháng 11. Theo TS Phạm Duy Hiền, dàn phẫu thuật nội soi của phòng mổ mới cho hình ảnh rõ ràng, sắc nét hơn hẳn so với công nghệ thông thường trước đây. Bệnh nhi được thực hiện phẫu thuật trong thời gian ngắn và ít gặp sang chấn, thời gian phục hồi nhanh hơn.

GS, TS Lê Thanh Hải, Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, trong phòng mổ tích hợp, toàn bộ thiết bị phẫu thuật, bao gồm thiết bị xử lý hình ảnh nội soi, bộ lưu trữ dữ liệu, và các thiết bị ngoại vi như bàn mổ, đèn mổ treo trần, dao điện cao tần đều được thiết kế, sắp đặt phù hợp với mọi nhu cầu sử dụng và có thể được điều khiển từ trạm làm việc đặt trong khu vực vô trùng hoặc ngoài khu vực vô trùng do điều dưỡng chạy ngoài hỗ trợ.

“Việc đưa vào sử dụng hệ thống OR1 TM sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực như chuẩn hóa quy trình phẫu thuật, tăng hiệu suất công việc. Bên cạnh đó, trong quá trình phẫu thuật việc trao đổi thông tin nhóm cũng tốt hơn. Đồng thời tối ưu hóa luồng công việc; giảm thiểu thời gian phẫu thuật, giảm thời gian chờ giữa các ca phẫu thuật”, GS Hải cho biết.

Đ.ánh giá cao sự hiện đại của phòng mổ mới, TS Phạm Duy Hiền cho biết, nhờ có ứng dụng này, dữ liệu của từng ca mổ được lưu trữ tại chỗ với hệ thống lưu trữ AIDA có độ bảo mật cao. Công nghệ này còn có khả năng lưu trữ dữ liệu sẽ được thực hiện ở cả hai loại định dạng hình ảnh 2D và 3D cũng như lưu trữ hình ảnh từ các nguồn thu khác nhau.

Với công nghệ truyền dữ liệu nối mạng toàn cầu, các bác sĩ tường thuật trực tiếp các trường hợp mổ tới các bệnh viện khác. “Việc đưa vào sử dụng phòng mổ OR1 sẽ giúp nâng cao chất lượng phẫu thuật, tăng cường công tác đào tạo chỉ đạo tuyến, giúp cho bệnh nhân có thể tiếp cận với dịch vụ phẫu thuật đẳng cấp quốc tế”, BS Hiền nói.

TRẦN NGUYÊN

Theo Nhân dân

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *