Ung thư vú là bệnh ung thư thường gặp nhất ở nữ giới, là mối quan tâm của nhiều chị em phụ nữ.
Năm 2020, Việt Nam ghi nhận hơn 9.345 trường hợp t.ử v.ong vì căn bệnh này.
Theo thống kê của GLOBOCAN năm 2020, nước ta có gần 183.000 số ca mắc mới ung thư, trong đó ung thư vú là 21.555 người mắc chiếm tỷ lệ 11,8%, với hơn 9.345 trường hợp t.ử v.ong.
Nếu như trước đây, người mắc ung thư vú thường gặp ở độ t.uổi trên 40 thì giờ đây căn bệnh này có xu hướng trẻ hóa. Ung thư vú có thể gặp ở bất cứ đối tượng nào, tuy nhiên gia tăng nguy cơ ở những người có yếu tố sau:
– Độ t.uổi: Ung thư vú có thể gặp ở mọi lứa t.uổi, đặc biệt là những phụ nữ trên 45 t.uổi. Đặc biệt, những phụ nữ không sinh con và sinh con đầu lòng sau độ t.uổi 30 có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn những người bình thường.
– Bản thân mắc bệnh lý về tuyến vú: như xơ vú, áp – xe – vú… nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến những tổn thương khó hồi phục ở vùng vú và tiến triển thành ung thư.
– Yếu tố di truyền: trong gia đình nếu có bà, mẹ hay chị gái mắc ung thư vú thì tỷ lệ mắc ung thư vú của cá nhân đó sẽ cao hơn. Phần lớn các trường hợp ung thư vú do di truyền thường từ 2 gen BRCA1 và BRCA2. Những phụ nữ có đột biến gen BRCA1 và/hoặc BRCA2 có thể có đến 80% nguy cơ mắc bệnh.
– Người từng bị ung thư như ung thư buồng trứng, phúc mạc, vòi trứng hoặc đã từng xạ trị vùng ngực cũng có nguy cơ bị ung thư vú cao.
– Phụ nữ dậy thì sớm (trước 12 t.uổi) và mãn kinh muộn (sau 55 t.uổi) cũng có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn người khác. Nguyên nhân là do những phụ nữ này chịu tác động lâu dài của hormone estrogen và progesterone.
– Béo phì cũng là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Nguyên nhân là do phụ nữ bị béo phì thường sản sinh ra nhiều estrogen hơn so với phụ nữ khác. Béo phì không chỉ làm tăng nguy cơ dẫn đến ung thư vú mà còn làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, mỡ m.áu và các bệnh ung thư khác như ung thư buồng trứng, ung thư đại trực tràng, ung thư gan,…
– Lối sống và sinh hoạt thiếu khoa học: Chế độ ăn uống nhiều calo trong khi cơ thể lười vận động sẽ làm lượng mỡ thừa trong cơ thể tăng cao dẫn đến béo phì và làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Ngoài ra, hút t.huốc l.á, uống nhiều rượu bia, căng thẳng kéo dài cũng dễ dẫn đến ung thư vú.
– Phơi nhiễm phóng xạ: Tuy lượng phơi nhiễm từ tia X là rất thấp nhưng nữ giới cũng cần hạn chế tiếp xúc với môi trường phóng xạ để tránh nguy cơ mắc bệnh.
Các chuyên gia khuyến cáo mọi chị em cần phải thực hiện khám vú mỗi tháng, sàng lọc nguy cơ ung thư vú tại bệnh viện sau t.uổi 40. Đặc biệt với người có một trong các yếu tố trên càng phải để ý để thực hiện tầm soát, khám sàng lọc, kịp thời phát hiện nếu bị ung thư ở giai đoạn sớm để được điều trị hiệu quả.
Ung thư vú xảy ra khi các tế bào ung thư ác tính được phát hiện trong mô vú, tình trạng này thường phát triển từ các ống bên trong vú. Các tế bào ung thư sau đó có thể lan rộng ra toàn bộ vú và sang các bộ phận khác trên cơ thể.
Ung thư vú có thể bao gồm các triệu chứng sau:
– Cục u không đau ở vú
– Ngứa và phát ban kéo dài quanh núm vú
– C.hảy m.áu hoặc tiết dịch bất thường ở núm vú
– Vùng da trên vú sưng và dày lên
– Vùng da trên vú sần vỏ cam hoặc nhăn nheo
– Núm vú bị tụt hoặc lõm vào trong
– Vùng nách sưng, đau hoặc có u
Bệnh nhân ung thư vú có thể sống khỏe đến 20 năm
Nhiều bệnh nhân ung thư vú được chữa khỏi, sống khỏe mạnh bên gia đình 10 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm.
Phát hiện sớm ung thư vú, người bệnh có cơ hội chữa khỏi rất cao, quay về cuộc sống bình thường.
Với các chị em, ung thư vú thực sự là căn bệnh đáng lo ngại, bởi đây cũng là bệnh ung thư thường gặp nhất ở nữ giới.
Theo thống kê của GLOBOCAN năm 2020, Việt Nam có gần 183.000 số ca mắc mới ung thư vú, trong đó ung thư vú là 21.555 người mắc chiếm tỷ lệ 11,8%. Ngoài ra cũng trong năm 2020, Việt Nam ghi nhận hơn 9000 trường hợp t.ử v.ong vì căn bệnh này.
TS.BS Lê Thanh Đức (trưởng khoa Nội 5, BV viện K) cho biết, ung thư vú là căn bệnh có thể điều trị khỏi hoàn toàn nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp, việc phát hiện càng sớm thì việc điều trị đơn giản, hiệu quả, tỷ lệ chữa khỏi cao và chi phí điều trị thấp.
Tại BV K Trung ương đã chữa trị cho nhiều trường hợp ung thư vú giai đoạn 1 – 2 khỏi bệnh trên 5 năm, sống 10 năm, 15 năm, thậm chí có những trường hợp lập gia đình, sinh con, sống khỏe mạnh đến 20 năm.
Tuy nhiên, nếu phát hiện muộn đã di căn, việc điều trị sẽ không mang lại hiệu quả cao. Trong cộng đồng, nhiều phụ nữ vẫn chưa có kiến thức về biện pháp tự khám vú tại nhà và ý thức được tầm quan trọng của việc đi khám sàng ung thư vú định kỳ nên phần lớn bệnh nhân ung thư vú đến khám và điều trị đã ở giai đoạn muộn, khả năng chữa khỏi thấp, chi phí điều trị tốn kém và kéo dài.
Tại Bệnh viện K, các bác sĩ đã khám và điều trị cho một số chị em ở độ t.uổi 20, chứ không chỉ với chị em ở độ t.uổi thường gặp là ngoài 40 như trước đây … Bởi vậy, công tác nâng cao chất lượng khám tầm soát để phòng ngừa, phát hiện sớm, điều trị ung thư vú ngày càng được Bệnh viện K chú trọng hơn.
Những dấu hiệu cảnh báo ung thư vú
– Khối u không đau ở ngực
– Thường xuyên bị ngứa và rát quanh núm vú
– Núm vú bị rỉ m.áu, tiết dịch khác thường hoặc thụt vào, co lại
– Làn da trên vú bị sần da cam, dày lên hoặc bị lún xuống, có nếp gấp.
– Có hạch ở hố nách.
Tự khám là biện pháp quan trọng nhất để phát hiện sớm ung thư vú. Phụ nữ nên tự khám vú đều đặn mỗi tháng một lần, tốt nhất tự kiểm tra sau kỳ k.inh n.guyệt là lúc vú mềm nhất. Trong gia đình có người thân mắc bệnh thì nguy cơ di truyền càng cao. Nếu bạn phát hiện có khối u hay sự thay đổi của vú, nên đến viện khám càng sớm càng tốt.
Các chị em nên tự khám vú sau kỳ k.inh n.guyệt khoảng 5 ngày, là lúc tuyến vú mềm và dễ cảm nhận nhất; cần có thói quen khám sức khỏe định kỳ, tầm soát ung thư vú khi qua t.uổi 40. Với những chị em có nguy cơ cao (trong gia đình có mẹ hoặc chị em gái mắc ung thư vú, đột biến gen BRCA1/BRCA2; có kinh sớm; không sinh con…), nên đi khám, tầm soát ở lứa t.uổi sớm hơn.