Đái tháo đường (còn gọi là tiểu đường) là bệnh rối loạn chuyển hóa carbohydrate (glucid), protein (protid) và lipid, đặc trưng bởi tăng glucose trong m.áu do giảm tương đối hoặc tuyệt đối tiết insulin, hiệu quả hoạt động insulin hoặc cả hai.
Khi tăng đường huyết vượt quá ngưỡng thận sẽ xuất hiện đường niệu (glucose trong nước tiểu).
Phân loại đái tháo đường gồm: Đái tháo đường type 1 và type 2. Ngoài ra còn có những thể khác như đái tháo đường thai kỳ, đái tháo đường sơ sinh, đái tháo đường do dùng thuốc, hóa chất chứa glucocorticoid, điều trị HIV/AIDS hoặc sau cấy ghép mô…
Đái tháo đường type 1
Insulin là hormone do các tế bào beta của đảo tụy sản xuất, có nhiệm vụ điều chỉnh sự chuyển hóa carbohydrate, protein và lipid bằng cách thúc đẩy hấp thụ glucose từ m.áu vào tế bào. Đái tháo đường type 1 là hậu quả của quá trình phá hủy tự miễn các tế bào beta của đảo tụy, dẫn đến không có hoặc có rất ít insulin. Bệnh chiếm 10-20% các trường hợp đái tháo đường, có thể xảy ra ở mọi độ t.uổi nhưng thường gặp ở t.rẻ e.m và thanh thiếu niên.
Đái tháo đường type 2
Đái tháo đường type 2 đặc trưng bởi thiếu insulin tương đối cùng với kháng insulin. Bệnh gây ra khoảng 85% trường hợp đái tháo đường, thường gặp ở người lớn trên 30 t.uổi.
Có nhiều nguyên nhân gây ra đái tháo đường type 2 nhưng không có nguyên nhân chuyên biệt nào. Bệnh thường xuất hiện cùng một số bệnh khác như béo phì, tăng huyết áp, rối loạn lipid m.áu. Nguy cơ bệnh gia tăng theo độ t.uổi, béo phì và ít vận động.
Đái tháo đường thai kỳ
Đái tháo đường thai kỳ là loại đái tháo đường được chẩn đoán ở phụ nữ mang thai trong 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối thai kỳ, mà không có bằng chứng cho thấy bị đái tháo đường trước đó. Khoảng 1-2% phụ nữ mang thai giảm dung nạp glucose dẫn đến mức đái tháo đường thai kỳ. Bệnh gây ra nguy cơ biến chứng trong quá trình mang thai và sinh nở. Phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ, trẻ sinh ra có nhiều nguy cơ bị đái tháo đường trong tương lai.
Nên theo dõi đường huyết thường xuyên ở người bệnh đái tháo đường.
2. Triệu chứng của bệnh đái tháo đường
Dù là đái tháo đường type 1 hay type 2 các bệnh nhân đều có các triệu chứng:
Ăn nhiều.
Uống nhiều.
Tiểu nhiều.
Sút cân.
Ngoài ra người bệnh còn bị khô miệng, khô da, mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, mất ngủ, rụng tóc và rối loạn k.inh n.guyệt (ở phụ nữ), vết thương lâu lành, có cảm giác kiến bò ở đầu chi… Nếu bệnh nhân không được khám và điều trị có thể dẫn đến những biến chứng nặng và phức tạp ở các phủ tạng.
3. Đái tháo đường có lây không?
Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hóa không phải là bệnh lây nhiễm nên không thể lây.
4. Phòng bệnh đái tháo đường
Việc phòng ngừa và điều trị bệnh đái tháo đường liên quan chặt chẽ đến chế độ ăn uống và tập luyện. Vì vậy cần chú ý đến những điều sau để hạn chế nguy cơ mắc bệnh:
Ăn uống:
Ăn đa dạng các loại thực phẩm, trong đó chú ý nhiều rau quả và trái cây.
Hạn chế các thực phẩm chế biến sẵn, đồ ăn nhanh, thực phẩm nhiều tinh bột.
Tránh thực phẩm nội tạng động vật, thức uống nhiều đường (nước ngọt).
Tập luyện:
Luyện tập thể dục ít nhất 30 phút/ngày trong ít nhất 5 ngày/tuần.
Kiểm soát chỉ số BMI từ 18-25.
Trong đó việc khám tầm soát ít nhất 1 năm/lần đối với người chưa mắc bệnh, 6 tháng/lần đối với người có yếu tố nguy cơ và điều trị thường xuyên đối với người đã mắc bệnh là rất quan trọng.
5. Cách điều trị bệnh đái tháo đường
Tùy vào tình trạng của mỗi bệnh nhân mà bác sĩ sẽ đưa ra mục tiêu điều trị khác nhau nhằm giảm các triệu chứng, kiểm soát lượng đường trong m.áu, giảm các biến chứng liên quan và giúp người bệnh đái tháo đường có cuộc sống bình thường.
Bệnh nhân đái tháo đường nên luyện tập 30 phút mỗi ngày, 150 phút mỗi tuần.
Việc điều trị đái tháo đường cần kết hợp sử dụng thuốc với chế độ ăn uống và rèn luyện phù hợp.
– Đái tháo đường type 1 bắt buộc phải dùng insulin để điều trị.
– Điều trị bệnh đái tháo đường type 2 cần bắt đầu từ chế độ ăn và rèn luyện.
Trong trường hợp đường huyết vẫn cao thì phải dùng thuốc. Nếu glucose m.áu tăng quá cao có thể dùng thuốc phối hợp sớm. Việc điều trị bằng thuốc sẽ bắt đầu với nhóm thuốc sulfonylurea hoặc metformin tùy theo thể trạng của bệnh nhân. Đa phần bệnh nhân đái tháo đường type 2 không cần điều trị bằng insulin. Chỉ khi các phương pháp trước đó không có hiệu quả thì bắt buộc dùng insulin (tỷ lệ này là 1/3 số bệnh nhân).
Thay đổi lối sống, giảm cân ở người béo phì và duy trì cân nặng ở người không thừa cân là điều kiện thiết yếu để điều trị và kiểm soát bệnh đái tháo đường:
Luyện tập 30 phút mỗi ngày, 150 phút mỗi tuần, không nên ngưng tập 2 ngày liên tiếp. Đi bộ là bài tập dễ áp dụng nhất, cần kết hợp với tập kháng lực. Nên tập theo thể lực của từng cá nhân.
Ưu tiên carbohydrat chưa qua tinh chế như gạo lứt, ngũ cốc nguyên hạt, bánh mì đen…
Bổ sung ít nhất 15g chất xơ mỗi ngày.
Bổ sung đạm động vật và đạm thực vật từ các loại đậu, ăn nhiều cá.
Ưu tiên chất béo tốt từ mỡ cá, dầu oliu, dầu mè, dầu lạc, các loại hạt óc chó, hạnh nhân… Không sử dụng chất béo chuyển hóa từ thức ăn nhanh, thực phẩm chiên rán ngập dầu.
Bổ sung các yếu tố vi lượng nếu thiếu.
Giảm muối và các chất tạo ngọt.
Không hút t.huốc l.á.
Bên cạnh đó người bệnh cần được:
– Kiểm soát huyết áp và lipid, phòng chống các rối loạn đông m.áu để giảm nguy cơ tim mạch và các biến chứng khác.
– Thường xuyên tầm soát các tổn thương ở mắt, thận, thần kinh và bàn chân để được điều trị sớm.
Các rối loạn tiêu hóa thường gặp ở người bệnh đái tháo đường
Đái tháo đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa có thể ảnh hưởng tới nhiều bộ phận trong cơ thể, trong đó có hệ thống tiêu hóa, gây ra các rối loạn.
Rối loạn tiêu hóa là biến chứng thường gặp trong bệnh tiểu đường và biến chứng này chiếm tỷ lệ rất cao (tới 50% số người bệnh) và gây ra nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh. Do đường huyết cao nên bệnh đái tháo đường (nhất là ở người mắc bệnh lâu năm) có thể gây ra rối loạn trên suốt đường tiêu hóa, một số ảnh hưởng điển hình và thường gặp.
Đái tháo đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa có thể ảnh hưởng tới nhiều bộ phận trong cơ thể, trong đó có hệ thống tiêu hóa, gây ra các rối loạn. Ảnh minh họa
Nguyên nhân bị rối loạn tiêu hóa ở người tiểu đường
Hầu hết người mắc tiểu đường lâu năm đều gặp vấn đề về tiêu hóa như là trào ngược axit, viêm dạ dày, buồn nôn, hội chứng ruột kích thích.
Các nguyên nhân có thể là:
Mắc bệnh tiểu đường trong một thời gian dài, những người mắc tuýp 1 có nguy cơ tổn thương dây thần kinh ruột cao hơn.
Không kiểm soát lượng đường trong m.áu trong thời gian dài có thể làm tổn thương các dây thần kinh và mô khác nhau, bao gồm cả các dây thần kinh của đường tiêu hóa.
Chứng khó tiêu là vấn đề tiêu hóa tồi tệ nhất đối với bệnh nhân tiểu đường. Tuy nhiên, bệnh tiểu đường có thể ảnh hưởng đến ruột nhiều hơn đến dạ dày, gây táo bón hoặc tiêu chảy.
Các rối loạn tiêu hóa thường gặp ở người bệnh đái tháo đường
Liệt dạ dày
Liệt dạ dày do đái tháo đường lâu năm, bệnh nhân có cảm giác buồn nôn, nôn, cảm giác sớm thấy no nên không thể ăn được nhiều. Việc chán ăn, ăn không được nhiều và nôn khiến cho bệnh nhân dễ dẫn đến suy nhược cơ thể, cơ thể mệt mỏi vì thiếu chất dinh dưỡng, có thể thiếu m.áu do thiếu vitamin và sắt, hạ huyết áp, thức ăn có thể bị kết thành khối trong dạ dày gây tắc. Ngoài ra còn ảnh hưởng rất nhiều tới quá trình điều trị bệnh do thuốc uống vào không được hấp thu và cũng là một trong những nguyên nhân gây dao động đường huyết nhiều hơn.
Rối loạn vận động thực quản
Đường huyết quá cao sẽ là nguyên nhân gây ra chứng rối loạn vận động thực quản. Bệnh nhân có thể đến gặp bác sĩ và than phiền về chứng khó nuốt, thức ăn bị nghẹn, cảm giác n.óng b.ỏng ở ngực do trào ngược dạ dày – thực quản, thậm chí đau ngực (dễ nhầm với cơn đau thắt ngực do thiếu m.áu cơ tim). Khi có triệu chứng trên, các bác sĩ có thể chỉ định cho bệnh nhân soi thực quản để loại trừ các nguyên nhân khó nuốt khác như: u thực quản, viêm thực quản, nhiễm nấm thực quản.
Rối loạn ở ruột và trực tràng
Bệnh đái tháo đường cũng có thể gây ra biến chứng ở ruột và trực tràng. Điển hình là những đợt đi ngoài phân lỏng nát có thể tới cả chục lần/ngày. Những đợt đi ngoài phân lỏng này có thể dừng lại xen kẽ với khoảng thời gian đi ngoài bình thường, thậm chí táo bón. Vì thế nên lưu ý khả năng việc dùng thuốc chữa đái tháo đường là metformin và thuốc ức chế men alpha glucosidase có thể gây ra những rối loạn ở ruột.
Đi ngoài không tự chủ cũng là tình trạng đáng ngại vì những biến chứng của đái tháo đường gây cho hệ tiêu hóa. Với người đái tháo đường có biến chứng thần kinh tự động, phần lớn bệnh nhân đều cảm giác thấy có phân trong trực tràng nhưng không thể kìm hãm sự tống phân một cách chủ động. Có lúc bệnh nhân không tự chủ được, phân có thể són ra quần.
Táo bón
Người bệnh tiểu đường rất hay bị mắc chứng táo bón. Đây là hệ quả của biến chứng thần kinh tự chủ do bệnh đái tháo đường. Khi đường huyết tăng cao làm giảm hàm lượng nước trong ruột, đồng thời gây tổn thương hệ thần kinh tự chủ làm chậm rỗng dạ dày, giảm nhu động ruột và dẫn đến tình trạng táo bón ở người bệnh, với các triệu chứng như ít đi cầu, đau bụng, khó đi cầu, phân cứng, cảm giác bị kẹt lại ở h.ậu m.ôn, phải rặn gắng sức phân mới ra ngoài được. Táo bón kéo dài sẽ khiến người bệnh mệt mỏi, khó chịu, ăn ngủ không ngon, luôn có cảm giác đầy tức bụng, suy nhược cơ thể.
Đặc biệt đối với người bệnh tiểu đường, táo bón khiến người bệnh không muốn ăn, giảm hấp thu nên có thể gây tình trạng hạ đường huyết, đồng thời cũng có thể gây biến chứng nhiễm toan ceton do tích tụ ammonia hay nhiễm khuẩn tiêu hóa.
Việc đường m.áu tăng cao trong bệnh đái tháo đường có thể gây ra những rối loạn hoạt động của hệ thống tiêu hóa.
Lời khuyên của bác sĩ
Việc đường m.áu tăng cao trong bệnh đái tháo đường có thể gây ra những rối loạn hoạt động của hệ thống tiêu hóa. Nguyên tắc chung trong điều trịrối loạn tiêu hóa ở người bệnh tiểu đườnglà giữ đường m.áu ổn định tốt sẽ phòng ngừa được rối loạn tiêu hóa. Trong trường hợp nếu người bệnh có biến chứng thì nên lạc quan vì sẽ có cách điều trị cho từng trường hợp cụ thể sau khi bác sĩ khám để tìm ra nguyên nhân gây rối loạn tiêu hóa và có các biện pháp chữa trị kịp thời.
Bên cạnh đó cần chủ động phòng ngừa bằng cách:
Kiểm soát trọng lượng cơ thể bằng cách giảm cân, qua đó giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.
Hoạt động thể chất thường xuyên không chỉ tốt cho việc phòng bệnh tiểu đường mà còn mang đến nhiều lợi ích cho cơ thể.
Bổ sung các loại ngũ cốc, các loại hạt cung cấp vitamin, khoáng chất và ít carbohydrate. Những thực phẩm carbohydrate chứa ít đường, tinh bột (nguyên liệu tạo nguồn năng lượng cho cơ thể) và nhiều chất xơ đem lại nhiều lợi ích trong việc phòng ngừa bệnh tiểu đường…Tránh các loại thực phẩm chứa nhiều đường, ít chất xơ/chất dinh dưỡng như bánh mì trắng và bánh ngọt, nước ép trái cây, thực phẩm chế biến chứa đường…
Hạn chế rượu bia, t.huốc l.á.
Thường xuyên kiểm tra lượng đường theo tư vấn của bác sĩ.