Giáo sư ĐH Y khuyến cáo đặc biệt khi gây mê làm đẹp

Nhiều cơ sở y tế khám tắt, khám gây mê qua loa trước khi phẫu thuật là một trong những nguyên nhân chính gây ra biến chứng nguy hiểm khi gây mê.

Vừa qua, tại TP.HCM xảy ra liên tiếp 2 trường hợp t.ử v.ong sau khi làm đẹp. Ngay sau đó, Sở Y tế TP.HCM đã yêu cầu BV thẩm mỹ Kangnam và BV thẩm mỹ Emcas tạm ngưng thực hiện các kỹ thuật liên quan đến phương pháp gây mê để đ.ánh giá mức độ an toàn phẫu thuật.

Khám gây mê qua loa

Theo GS Nguyễn Hữu Tú, Phó Chủ tịch Hội Gây mê hồi sức Việt Nam, Trưởng Bộ môn Gây mê hồi sức ĐH Y Hà Nội, trong gần 30 năm làm nghề, ông đã gặp rất nhiều trường hợp sốc phản vệ do thuốc gây mê, nhưng đều được cấp cứu kịp thời, chưa ghi nhận trường hợp nào t.ử v.ong.

GS Tú cho biết, hiện các cơ sở y tế tại Việt Nam cũng như trên thế giới đang sử dụng 5-10 thuốc gây mê khác nhau. Thuốc dùng cho gây mê có thể chia làm 3 nhóm chính: T.huốc n.gủ, thuốc giảm đau dòng họ mocphin và thuốc giãn cơ.

GS Nguyễn Hữu Tú

Việc phối hợp 3 loại thuốc đảm bảo cho người bệnh không biết và không nhớ các hoạt động của cuộc phẫu thuật, không đau dù phẫu thuật lớn thế nào trong khi các cơ được giãn hoàn toàn, tạo điều kiện thuận lợi cho các bác sĩ thao tác phẫu thuật.

Trong cuộc gây mê toàn thân có đặt nội khí quản, bác sĩ gây mê hồi sức sẽ sử dụng lần lượt thuốc dòng họ mocphin, kế đó là t.huốc n.gủ, cuối cùng là thuốc giãn cơ. Thông thường sau khi tiêm t.huốc n.gủ từ 1-3 phút, bệnh nhân sẽ mất tri giác.

GS Tú nhấn mạnh, thuốc gây mê hay các thuốc khác khi tiêm vào cơ thể qua đường tĩnh mạch đều có nguy cơ gây ra dị ứng mà nguy hiểm nhất là sốc phản vệ. Sốc phản vệ thường xảy ra ngay sau khi gây mê trong khi các phản ứng dị ứng chậm hơn, có thể sau vài chục phút, thậm chí vài tiếng.

Tùy từng nhóm thuốc, tỉ lệ dị ứng sẽ khác nhau, trong đó thuốc giãn cơ có tỉ lệ phản ứng lớn nhất, kế đó là thuốc dòng họ mocphin.

Trước đây, t.huốc n.gủ thiopental được dùng để gây mê nhưng do có tỉ lệ dị ứng lớn, nhiều tác dụng phụ, bệnh nhân lâu tỉnh nên giờ hầu như không còn dùng, thay vào đó bác sĩ sử dụng các t.huốc n.gủ mới như propofol, ketamin, etomidat… giúp giảm đáng kể tỉ lệ bệnh nhân bị dị ứng khi gây mê.

Tuy nhiên, nếu các cuộc gây mê do bác sĩ gây mê hồi sức có chuyên môn thực hiện, bệnh nhân được khám kĩ trước khi làm phẫu thuật, được sử dụng các biện pháp dự phòng, các tai biến nguy hiểm gần như không có.

“Đáng tiếc, nhiều cơ sở y tế hiện nay làm tắt, khám gây mê qua loa, trong khi đây là loại khám chuyên khoa bắt buộc trước khi phẫu thuật”, GS Tú nhấn mạnh.

Những trường hợp cần lưu ý khi gây mê

Theo GS Tú, việc bác sĩ gây mê trực tiếp khám cho bệnh nhân sẽ giúp phát hiện nhiều yếu tố nguy cơ khi gây mê, giúp phòng tránh hoặc làm giảm các yếu tố nguy cơ và dự kiến kế hoạch gây mê hồi sức an toàn nhất cho người bệnh.

Khi đó, bác sĩ có thể đổi phương pháp vô cảm, đổi loại thuốc, nếu bệnh nhân có phản ứng dị ứng nặng có thể phải điều trị qua giai đoạn mẫn cảm rồi mới phẫu thuật… Từ đó loại trừ được các trường hợp sốc phản vệ.

Khám chuyên khoa gây mê trước khi phẫu thuật sẽ giúp bệnh nhân phòng tránh hoặc giảm được các yếu tố nguy cơ trong phẫu thuật

Tại Việt Nam chưa có thống kê chung về tỉ lệ tai biến trong và sau gây mê. Trên thế giới, tỉ lệ t.ử v.ong liên quan đến gây mê tại các nước phát triển hiện nay là 0,1-0,3/10.000 ca, trong khi tại các nước đang phát triển, tỉ lệ này là 3-5/10.000 trường hợp được gây mê.

Tại Pháp, theo tài liệu công bố năm 2008, tỉ lệ t.ử v.ong liên quan đến gây mê là 1/140.000 trường hợp.

Để tránh các phản ứng dị ứng nặng khi gây mê, GS Tú lưu ý các trường hợp có t.iền sử dị ứng (dễ mẫn cảm thời tiết, hoá chất, phấn hoa, thức ăn…); những người mắc các bệnh suy các cơ quan, t.rẻ e.m, người già yếu, phụ nữ có thai… cần được coi là người bệnh có nguy cơ cao khi làm các phẫu thuật, thủ thuật có liên quan đến gây mê.

Về nguyên nhân gây t.ử v.ong sớm sau phẫu thuật, GS Tú nhìn nhận, ngoài sốc phản vệ còn có nhiều nguyên nhân khác, trong đó phổ biến nhất là suy hô hấp sau phẫu thuật. Nguyên nhân có thể do trong cơ thể bệnh nhân còn tồn dư thuốc mê trong khi hỗ trợ về hô hấp không còn hoặc bệnh nhân được dùng các thuốc có ức chế trung tâm hô hấp; do việc hồi sức, hồi tỉnh cho bệnh nhân chưa tốt…

“Thường các biến chứng suy hô hấp sau phẫu thuật có diễn tiến, nhưng do bệnh nhân không được phát hiện kịp thời nên khi thực hiện cấp cứu thì đã nặng”, GS Tú phân tích.

Thúy Hạnh

Theo vietnamnet

Khi bệnh nhi lên bàn mổ…

Phẫu thuật cho bệnh nhi đòi hỏi sự khéo léo, cẩn trọng và tỉ mỉ của đội ngũ bác sĩ và nhân viên y tế, bởi chỉ một sơ suất nhỏ, bệnh nhi sẽ rất dễ gặp những rủi ro không lường trước được.

Bác sĩ Vũ Công Tầm, Trưởng khoa Phẫu thuật – gây mê – hồi sức Bệnh viện nhi đồng Đồng Nai tái khám cho bệnh nhi. Ảnh: B.Nhàn

Hiện nay, Bệnh viện nhi đồng Đồng Nai đã phẫu thuật được đối với các trường hợp bệnh nhi vừa sinh ra được vài giờ t.uổi, có cân nặng khoảng hơn 1kg.

* Tỉ mỉ như… phẫu thuật cho trẻ sơ sinh

Do sinh thiếu tháng, bé T.N.H.M. (xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom) chỉ nặng 2,4kg. Sau 2 ngày ói dịch xanh, vàng, bé chỉ còn 1,9kg.

Các bác sĩ chẩn đoán, bé M. bị dị dạng tắc ruột bẩm sinh dù nhìn bên ngoài, ruột của bé M. vẫn liền mạch như bình thường. Các bác sĩ đã phải làm thêm các cận lâm sàng như: siêu âm, chụp X-quang… mới đưa ra quyết định mổ, tránh tình trạng “mổ trắng” (mổ ra nhưng không có bệnh) gây nguy hiểm cho bệnh nhi. Để tìm được phần bị tắc ruột của bé M., các bác sĩ đã phải tiêm nước sinh lý vào lòng ruột để tìm đoạn tắc.

Cũng bị tắc ruột sơ sinh như bé M., nhưng bé N.T.T. (6 tháng t.uổi, ngụ xã Nhân Nghĩa, huyện Cẩm Mỹ) bị tắc nhiều đoạn ruột khiến việc phẫu thuật gặp khó khăn. Bác sĩ Vũ Công Tầm, Trưởng khoa Phẫu thuật – gây mê – hồi sức Bệnh viện nhi đồng Đồng Nai cho biết, gần 30 năm trong nghề, đây là ca tắc ruột phức tạp nhất mà ông từng gặp. Lúc ấy, cả ê-kíp mổ đều khá bối rối vì ruột của trẻ sơ sinh rất nhỏ, ngắn nên phải tiết kiệm từng mi-li-mét ruột nên không thể cắt cả đoạn ruột bị tắc, khoảng 25cm (bằng 1/4 tổng chiều dài ruột của bé). Các bác sĩ đã phải tỉ mỉ xẻ dọc ruột cắt các màng ngăn rồi khâu theo chiều ngang của ruột để giảm tổn thương cho bé T.

Sau ca mổ hi hữu, bé T. đã khỏe mạnh và xuất viện. “Những ca tắc ruột, các bác sĩ phải nâng niu từng mi-li-mét ruột, bảo tồn ruột tối đa cho trẻ vì nó ảnh hưởng tới sự phát triển về thể trạng sau này của bé” – bác sĩ Vũ Công Tầm bộc bạch.

Bác sĩ Vũ Công Tầm, Trưởng khoa Phẫu thuật – gây mê – hồi sức Bệnh viện nhi đồng Đồng Nai chia sẻ: “Các bác sĩ làm phẫu thuật nhi khoa phải rất tỉ mỉ và phải dự tính được cả quá trình phát triển sau này của trẻ. Đặc biệt, khi mổ cho trẻ, điều lo ngại của các bác sĩ mổ và gây mê là tình trạng mất nhiệt. Do đó, phòng mổ không những không được trang bị máy lạnh mà còn lắp thêm lò sưởi để giữ nhiệt cho trẻ trong suốt quá trình mổ”.

* “Toát mồ hôi” khi mổ

Căng thẳng nhất là những ca trẻ bị viêm phúc mạc, có mủ trong ổ bụng bắt buộc các bác sĩ phải rửa sạch, kỹ và trong thời gian nhanh nhất. Trong khi đó, việc đưa nước vào rửa ổ bụng sẽ khiến thân nhiệt của trẻ bị tụt dẫn đến mất nhiệt, sốc trong mổ và sau mổ. Vì vậy, bác sĩ phải dùng nước đúng 37OC, rửa nhanh, sạch và không bị vẩy nước ra ngoài khu vực được rửa.

Bác sĩ Vũ Công Tầm cho hay, trong phẫu thuật các ca bệnh nhi, sợ trẻ mất nhiệt nên các bác sĩ bắt buộc phải mổ trong môi trường không máy lạnh, phòng mổ kín và có thêm máy sưởi. “Mổ cho một bé sơ sinh nặng 1kg xong, chúng tôi cũng đẫm mồ hôi như nông dân mới đi cày xong dưới trời nắng. Vừa mổ, chúng tôi phải có một điều dưỡng lau mồ hôi giúp” – bác sĩ Tầm nói.

Mỗi ca phẫu thuật đều mang lại những bất ngờ khác nhau. Bác sĩ Vũ Công Tầm kể, vài năm trước, khoa đã tiếp nhận một bệnh nhi bị viêm phúc mạc bào thai. Khi mổ, các bác sĩ thấy tình trạng bé V.A.T. (ngụ xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch) bị đứt đôi ruột khiến phân su tràn đầy ổ bụng, còn ruột cuốn với nhau thành một mớ bòng bong và bị dính đầy phân su. “Nhìn cảnh đó, chúng tôi khá “sốc” vì không biết phải nên làm gì để tìm ra mối đứt. Sau vài phút hội ý, chúng tôi quyết định gỡ mớ bòng bong rồi mới đưa ra cách phẫu thuật cụ thể” – bác sĩ Tầm nhớ lại.

Nhưng làm sao để gỡ ruột mà không gây c.hảy m.áu cho bé cũng khiến các bác sĩ “đau đầu” vì lượng m.áu của trẻ sơ sinh rất ít, chỉ 90ml/kg cân nặng, trong khi bé T. nặng có 1,8kg. Các bác sĩ cẩn trọng vừa gỡ ruột, vừa lấy phân ở ruột và làm sạch ổ bụng. Bác sĩ Tầm kể: “Chúng tôi phải để ý rất kỹ từng t.ia m.áu nhỏ của bé. Cuối cùng, chúng tôi đã gỡ được ruột, nối mối xì và sắp xếp ruột theo đúng cấu tạo cho bé. Sau ca mổ 2 tuần, bé đã được xuất viện và sống khỏe mạnh”.

* Không có công thức chung chính xác

Không chỉ bác sĩ phẫu thuật căng thẳng khi tiếp nhận những ca bệnh này mà các bác sĩ gây mê cũng phải “cân não” trong mỗi ca mổ khó. Bác sĩ gây mê Bùi Thị Thảo, Bệnh viện nhi đồng Đồng Nai cho hay, song song với các phẫu thuật viên, bộ phận gây mê cũng phải làm việc cật lực và căng thẳng. Các trẻ có dị vật bẩm sinh đều phải được khám kỹ tất cả các chức năng. Ngoài ra, bác sĩ gây mê cũng phải kiểm tra công thức m.áu để đ.ánh giá lượng m.áu bé có thể mất tối đa là bao nhiêu để tìm phương án trước mỗi ca mổ.

Một khó khăn nữa là bệnh nhi càng nhỏ t.uổi thì càng khó thực hiện phẫu thuật. Đối với trẻ sơ sinh, da thịt còn non nên chỉ mạnh tay một chút là chỗ da thịt ấy có thể bị rách. “Việc gây mê cho trẻ vô cùng khó và không có một công thức chính xác nào áp dụng chung trên bệnh nhi. Chúng tôi phải dựa vào cơ địa của từng trẻ để gây mê liều thấp, liều cao khác nhau. Có những ca bệnh, tôi phải suy nghĩ phương pháp gây mê cả vài tuần trước khi mổ” – bác sĩ Thảo tâm sự.

Trong suốt ca mổ, bác sĩ phẫu thuật căng thẳng như thế nào, bác sĩ gây mê cũng căng thẳng không kém. Và họ chỉ thực sự thở phào nhẹ nhõm khi bệnh nhi ổn định, khỏe mạnh xuất viện.

Bích Nhàn

Theo baodongnai

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *