Người tăng huyết áp được khuyến khích thường xuyên ăn trái cây, đặc biệt là chuối và táo để phòng ngừa các biến cố tim mạch.
Ba tôi 58 t.uổi, bị tăng huyết áp, có thời điểm chỉ số lên tới 190mmHg. Gần đây, ông đi khám được bác sĩ chẩn đoán thêm t.iền đái tháo đường. Về nhà, ba tôi kiêng cữ tất cả các loại trái cây có đường, tinh bột. Ông chỉ ăn thanh long, dưa chuột, đôi khi người mệt, chân tay bủn rủn. Bác sĩ tư vấn giúp người tăng huyết áp ăn trái cây gì là tốt nhất. Xin cảm ơn! (Trần Hoàng Linh – Long Biên, Hà Nội).
Bác sĩ Nguyễn Huy Hoàng – Trung tâm Oxy cao áp Việt Nga, Bộ Quốc phòng (Hà Nội) tư vấn:
Tăng huyết áp là căn bệnh phổ biến trên toàn thế giới hiện nay, bị coi là sát thủ thầm lặng, khiến 10 triệu người t.ử v.ong mỗi năm.
Tại Việt Nam, cứ 4 người trưởng thành có 1 người bị tăng huyết áp. Bệnh nhân tăng huyết áp phải dùng thuốc suốt đời. Nếu ngưng thuốc hoặc kiểm soát bệnh không tốt có thể gây ra các biến cố sức khỏe như đột quỵ, nhồi m.áu cơ tim.
Trong chế độ sinh hoạt hằng ngày, người bệnh được tư vấn ăn uống khoa học kết hợp tập thể dục phù hợp với tình trạng sức khỏe. Trong đó, bổ sung thêm trái cây, rau xanh là lựa chọn tốt.
Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng nếu người tăng huyết áp thường xuyên ăn trái cây có thể giảm nguy cơ t.ử v.ong. Một nghiên cứu trên 2.500 bệnh nhân tăng huyết áp trong vòng 10 năm cho kết quả, nếu 1 tuần ăn táo 3-6 lần sẽ giảm 40% nguy cơ t.ử v.ong do bệnh này. Ăn chuối từ 3-6 lần/tuần giảm được 24%. Người bệnh ăn cả chuối và táo giảm 43% nguy cơ t.ử v.ong do huyết áp cao.
Táo rất giàu hàm lượng chất chống oxy hóa tự nhiên có tác dụng hạ mỡ m.áu, huyết áp, loại bỏ các gốc tự do dư thừa trong quá trình lão hóa của cơ thể.
Chuối là trái cây giàu kali. Bổ sung chuối thường xuyên giúp hạ huyết áp, mạch m.áu được thư giãn. Kali cũng hỗ trợ bài tiết natri qua nước tiểu. Natri trong m.áu cao là nguyên nhân gây ra tăng huyết áp.
Chuối là thực phẩm tốt cho người tăng huyết áp. Ảnh: Freepik.
Chuối còn chứa nhiều magie có tác dụng hỗ trợ chức năng cơ, bảo vệ hệ tim mạch. Chuối rất giàu chất chống oxy hóa như vitamin C và catechin, cải thiện chức năng nội mô, từ đó góp phần giảm huyết áp.
Về chỉ số đường huyết cao ở mức t.iền đái tháo đường, người bệnh chỉ cần thay đổi chế độ ăn, hạn chế bánh kẹo ngọt, giảm lượng tinh bột như cơm trắng, bánh phở, bún, thay thế bằng trái cây, rau xanh thay vì kiêng ăn gây thiếu chất, mệt mỏi.
Thực đơn mẫu cho bệnh nhân 50kg, năng lượng: 1.500-1.600Kcal/ngày, protein: 70-80g/ngày:
Loại thực phẩm đầy nguy cơ bệnh tật người Việt đang ăn nhiều
Với nhiều ưu điểm, thức ăn nhanh đang dần trở thành lựa chọn tối ưu của không ít người trẻ Việt.
Tuy nhiên, thói quen này lại làm tiêu hao sức khỏe của rất nhiều người.
Lạp xưởng nướng đá, món ăn vặt đang được nhiều người trẻ Việt ưa chuộng gần đây. Ảnh: Thụy Trang.
Theo một số nghiên cứu, hơn 90% người dân sống tại Hà Nội và TP.HCM cho biết thường xuyên tiêu thụ đồ ăn nhanh, đồ ăn chế biến sẵn. Về lâu dài, thói quen này có thể gây ra nhiều căn bệnh không lây nhiễm, tạo ra gánh nặng đối với xã hội.
Thông tin đáng báo động này được Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) đưa ra trong Khuyến nghị hàm lượng natri tối đã cho một số thực phẩm chế biến bao gói sẵn tại Việt Nam hôm 28/3.
Người Việt chuộng đồ ăn nhanh
Theo một nghiên cứu về ẩm thực đường phố tại TP.HCM hồi 2019, 95,5% người dân tham gia khảo sát cho biết có ăn các món ăn này. Trong đó, 82% người mua đồ ăn sáng ngoài đường và 51% ăn hàng ngày.
Một nghiên cứu khác với 467 người trong độ t.uổi 19-39 tại TP.HCM cũng cho thấy 47% người tham gia thường xuyên sử dụng đồ ăn nhanh. Tỷ lệ này cao hơn ở nam giới và thanh thiếu niên (16-24 t.uổi).
Theo một nghiên cứu do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) tại Việt Nam, 95% người 15-25 t.uổi thuộc cả khu vực thành thị và nông thôn Hà Nội có xu hướng tiêu thụ các loại thức ăn nhanh. Bánh mì, đồ ăn nhanh và mì ăn liền là những loại thực phẩm phổ biến nhất.
Cụ thể, đây là 4 nhóm thực phẩm phổ biến có nhiều natri được tiêu thụ “hàng tuần” được tiêu thụ nhiều nhất.
Nhóm đầu tiên là đồ ăn nhẹ có vị mặn như bắp rang và ngô, các loại hạt và các loại hạt hỗn hợp (bao gồm cả trái cây), bánh quy mặn, bánh quy giòn, bánh quy xoắn, các đồ ăn nhẹ khác làm từ gạo, ngô, lúa mì, bột hoặc khoai tây (khoai tây chiên, khoai tây chiên giòn), thịt lợn, bì gà, rong biển chế biến…
Nhóm thứ hai là các thực phẩm chế biến sẵn, tiện lợi và các món ăn tổng hợp như pizza, lasagne, mì, cháo ăn liền, bánh bao, bánh mì kẹp thịt dạng bữa ăn làm sẵn, khoai tây chiên, bánh mì nướng bơ…
Nhóm thứ ba là bánh mì, các sản phẩm bánh mì và bánh mì giòn như bánh mì trắng, bánh mì vàng, bánh mì nguyên hạt, rotis, prata, bánh mì với nho khô, bánh mì nướng, bánh mì phô mai…
Nhóm cuối cùng là thịt, cá đã qua chế biến như xúc xích, giăm bông, thịt xông khói, thịt/cá đóng hộp và gà viên, cá viên, chả bò/gà, patê…
Theo Cục Y tế dự phòng, xu hướng tiêu thụ nhiều các loại thức ăn nhanh là do sự tiện lợi, phục vụ nhanh, chi phí thấp và không mất thời gian chuẩn bị.
Tuy nhiên, thức ăn nhanh, thực phẩm chế biến sẵn thường có nhiều đường, chất béo và natri (muối). Các chất này làm tăng nguy cơ tăng huyết áp, bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư và các bệnh không lây nhiễm khác.
Tác hại không tưởng
Trong những năm gần đây, các bệnh không lây nhiễm như tăng huyết áp, bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư, bệnh hô hấp mạn tính đã gia tăng và trẻ hóa…, đang gây ra gánh nặng và thách thức đối với sức khỏe cộng đồng.
Tại Việt Nam, ước tính trong năm 2019, tỷ lệ người t.ử v.ong do bệnh không lây nhiễm chiếm hơn 80% tổng số ca t.ử v.ong toàn quốc, chủ yếu là do các bệnh tim mạch (39,5%), ung thư (15,9%), bệnh hô hấp mạn tính (6,2%) và đái tháo đường (4,7%).
Nguyên nhân chính khiến bệnh không lây nhiễm gia tăng là sự phát triển nhanh chóng trong lối sống kéo theo sự thay đổi trong chế độ ăn uống của người dân.
Giờ đây, thay vì ăn các thực phẩm truyền thống, nhiều người bắt đầu chuyển hướng sáng thực phẩm chế biến nhiều chất béo, muối, đường.
Ăn nhiều muối làm gia tăng các bệnh không lây nhiễm, tạo ra gánh nặng đối với xã hội. Ảnh: Adobe Stock.
Theo kết quả Điều tra Yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm (STEPs) năm 2015 tại Việt Nam, mức tiêu thụ muối trung bình là 3,76 mg natri, tương đương với 9,4 g muối/người/ngày.
Con số này cao gần gấp 2 lần khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Theo đó, mỗi người chỉ nên ăn 2 mg natri, tương đương với 5 g muối/người/ngày.
Đến năm 2020, mức tiêu thụ muối trung bình của người Việt đã giảm xuống còn 8,4 g muối/người/ngày. Mặc dù vậy, con số này vẫn cao hơn nhiều so với khuyến nghị của WHO.
Bên cạnh đó, người Việt cũng có xu hướng ăn nhiều gia vị hơn rau quả. Theo tổng điều tra Dinh dưỡng năm 2020 tại Việt Nam, lượng rau quả mỗi người ăn vào trung bình chỉ đạt 66,4-77,4% khuyến nghị.
Trong khi đó, người dân lại tiêu thụ nhiều mì ăn liền, các loại gia vị nhiều muối như bột canh, nước mắm, nước tương, mì chính.
Ăn thừa natri là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng làm gia tăng gánh nặng bệnh tật, tạo ra áp lực lớn đối với xã hội, ngành y tế và chính bản thân người bệnh.
Tăng huyết áp là hậu quả dễ thấy nhất của thói quen ăn nhiều muối. Giờ đây, với xu hướng trẻ hóa, căn bệnh này làm tăng nguy cơ mắc bệnh đột quỵ, tim mạch không chỉ ở nhiều người già mà còn ở những người đang độ t.uổi lao động.
Ăn nhiều muối cũng làm tăng gánh nặng cho thận, dẫn tới suy giảm chức năng thận, gây ra sỏi thận và các bệnh thận khác. Tại Việt Nam, nhiều chuyên gia nhận định bệnh thận đang có xu hướng trẻ hóa, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống người bệnh.
Ngoài ra, một nghiên cứu cũng chứng minh thói quen ăn nhiều muối làm tăng nguy cơ mắc ung thư dạ dày lên tới 68%.
Không chỉ ăn nhiều đường, ăn nhiều muối cũng gián tiếp gia tăng tỷ lệ béo phì ở nhiều người Việt. Càng nạp nhiều muối, mọi người, nhất là t.rẻ e.m, càng có xu hướng tìm đến đồ uống có đường để giải khát, gây tăng cân.
Ngoài ra, ăn thừa muối cũng gây gia tăng hoặc làm nghiêm trọng nhiều bệnh khác như hen phế quản, loãng xương, rối loạn thính lực.
Nghiêm trọng hơn, thói quen này cũng có khả năng ảnh hưởng đến hoạt động của não, thậm chí có thể gây chứng mất trí do tắc mạch m.áu não.