Những năm gần đây, bệnh ung thư có xu hướng gia tăng ở Việt Nam. Theo báo cáo của Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế, trong năm 2018, nước ta có khoảng 165.000 ca ung thư mới mắc, gần 115.000 trường hợp t.ử v.ong và hơn 300.000 người đang phải chung sống với căn bệnh này.
Quá tải bệnh nhân mắc ung thư tại BV Ung bướu
Đó là thông tin được các chuyên gia cho biết tại Hội thảo “Những tiến bộ của xạ trị trong điều trị ung thư”, do Bệnh viện FV tổ chức vừa qua tại TPHCM. Hội thảo có các bác sĩ chuyên khoa ung thư đến từ Úc, Ấn Độ và trong nước, tập trung vào các chuyên đề: Xạ – phẫu trong điều trị ung thư phổi; những tiến bộ trong xạ trị…
Đề cập đến giải pháp điều trị hiệu quả, giúp cho bệnh nhân không chỉ kéo dài sự sống mà còn cải thiện chất lượng sống trong và sau khi điều trị, bác sĩ Basma M’Barek, Trưởng Trung tâm điều trị Ung thư Hy vọng, Bệnh viện FV cho biết, trong các phương pháp điều trị ung thư hiện nay, xạ trị được xem là phương pháp hiện đại và ngày càng được cải tiến với độ chính xác cao nhằm mang đến hiệu quả điều trị tối ưu và hạn chế tác dụng phụ cho bệnh nhân, đặc biệt là kỹ thuật xạ trị điều biến liều kỹ thuật số (VMAT).
Đây là kỹ thuật xạ trị điều biến liều kỹ thuật số kết hợp với kỹ thuật hình ảnh CT 4D nhằm định vị chính xác hình dạng và kích thước của khối u, từ đó có thể tính toán liều xạ tối ưu nhất để tia xạ t.iêu d.iệt được khối u mà không làm tổn hại mô lành xung quanh, nhờ vậy hạn chế tối đa tác dụng phụ ở bệnh nhân.
Mức độ chính xác của kỹ thuật VMAT gần như tuyệt đối, có thể kiểm tra được vị trí bướu cần xạ trị một cách chính xác qua mỗi lần xạ bằng hệ thống chụp hình cắt lớp ngay trên bàn máy xạ. Liều xạ trên mô lành như tuyến mang tai giảm rất nhiều so với các kỹ thuật trước và tiết kiệm thời gian xạ lên tới 50%, đồng thời gia tăng hiệu quả điều trị lên gấp đôi.
“Nhiều bệnh nhân ung thư vòm hầu và thanh quản nhờ điều trị bằng kỹ thuật VMAT đã đạt được hiệu quả điều trị tối ưu, đồng thời vẫn bảo tồn được các mô lành xung quanh. Bệnh nhân sau điều trị vần có thể nói chuyện, ăn uống bình thường, đảm bảo chất lượng sống. Tương tự, với các bệnh nhân ung thư vú hoặc phổi điều trị bằng kỹ thuật VMAT kết hợp với kỹ thuật chụp CT 4D và máy ABC (điều phối nhịp thở tích cực giúp) giúp xác định được độ di chuyển của bướu ngay cả khi người bệnh hít vào hay thở ra, từ đó chiếu xạ chính xác để chỉ t.iêu d.iệt khối u mà không làm tổn thương các mô lành xung quanh”, bác sĩ Basma M’Barek thông tin.
THÀNH AN
Theo SGGP
Để ung thư không còn là nỗi ám ảnh
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Chương trình Globocan, trong những năm qua, tỷ lệ mắc mới và t.ử v.ong do các bệnh lý ác tính tăng liên tục, biến Việt Nam thành một trong những quốc gia có tỷ lệ mắc ung thư và t.ử v.ong do ung thư thuộc nhóm cao trên thế giới.
Việc thăm khám định kỳ sẽ giúp phát hiện các nguy cơ khởi phát bệnh. Ảnh minh họa.
Tầm soát sớm – tránh ung thư
Rất nhiều trường hợp, bệnh được phát hiện khi đã ở giai đoạn quá muộn và mất đi những cơ hội được điều trị dứt điểm. Việc thăm khám định kỳ sẽ giúp phát hiện các nguy cơ khởi phát bệnh để có những giải pháp điều trị dự phòng hoặc tiến hành điều trị sớm, tăng cơ hội chữa trị khỏi hoàn toàn cho bệnh nhân.
Đây là nhóm bệnh ác tính với nhiều nguyên nhân và tính chất bệnh lý khác nhau. Hiện nay khoa học vẫn chưa có công cụ hay phương thức đơn lẻ nào cho phép phát hiện và phát hiện sớm tất cả các thể bệnh lý ác tính khác nhau.
Trên thực tế, mỗi một bệnh lý ung thư sẽ có nhưng cách sàng lọc đặc thù nhưng phổ thông hơn cả là các nhóm phương pháp chẩn đoán hình ảnh (siêu âm, X Quang, chụp CT); Nhóm phương pháp dựa trên các dấu ấn sinh học đặc trưng của bệnh trong các dịch cơ thể (m.áu, nước tiểu, dịch não tuỷ)
Ví dụ, nội soi là phương pháp thường quy áp dụng cho phát hiện sớm ung thư đại tràng, dạ dày, ung thư vòm mũi họng trong khi đó siêu âm là phương pháp đơn giản cho phép phát hiện sớm nhiều thể bệnh ác tính như ung thư vú, ung thư gan, còn CT liều thấp được coi là phương pháp hữu dụng áp dụng trong sàng lọc và lọc sớm ung thư phổi….
Nồng độ AFP cao trong m.áu được coi là một chỉ thị của ung thư gan, trong khi đó đột biến telomerase reverse-transcriptase (Tert mutation) là chỉ thỉ của một số bệnh lý ác tính như ung thư: tuyết giáp, đại trực tràng, hệ thần kinh, não, gan.
Tầm soát di truyền phát hiện gene bệnh lý ung thư
Cho đến nay, ngoài yếu tố môi trường, thói quen sinh hoạt, tính chất di truyền học của mỗi cá thể, mỗi cộng đồng dân cư hay mỗi gia đình là yếu tố có liên quan chặt chẽ đến việc hình thành và phát triển của nhiều bệnh lý ác tính.
Ngoài ra, cộng đồng khoa học cũng thừa nhận, tính chất di truyền học có liên quan đến nhiều bệnh lý khác ngoài ung thư như: tiểu đường, các bệnh lý tim mạch, diễn biến quá trình lão hoá, các bệnh Down, Parkinson, bệnh tự kỷ, bệnh vô sinh, khả năng chuyển hoá thuốc của cơ thể cũng như tính mẫn cảm của cơ thể với một số thực phẩm hoặc dị nguyên từ môi trường sống.
Chính vì tính phức tạp của bệnh, nên để tầm soát bệnh, mỗi người nên đến các cơ sở Y tế có tên t.uổi được trang bị đầy đủ máy móc trang thiết bị và con người để nhận được những lời khuyên, sự tư vấn hữu ích giúp chúng ta có những giải pháp sàng lọc và sàng lọc sớm ung thư phù hợp.
Trên thực tế có khoảng 10-15% ung thư có tính chất di truyền. Hiện tượng di truyền ung thư thường xuất hiện trong những gia đình: có từ 2 cá thể cùng huyết thống mang bệnh; mắc ung thư trẻ t.uổi (dưới 50); mắc nhiều hơn một thể ung thư; mắc các thể ung thư hiếm, hoặc ví dụ bệnh nhân là nam nhưng mắc ung thư vú,…
Chính vì lẽ đó, việc xét nghiệm phát hiện đột biến gene quy định tính chất di truyền ung thư đã được Hiệp hội Di truyền học Y khoa Hoa Kỳ khuyến cáo chỉ định cho những đối tượng hoặc người có quan hệ huyết thống với bệnh nhân đã mắc: Ung thư vú, ung đại trực tràng, ung thư dạ con được phát hiện trước 50 t.uổi; hoặc người mắc trên một thể ung thư; mắc ung thư ở cả 2 cơ quan cặp đôi ví dụ phát hiện khối u ở cả hai bên vú, cả hai bên thận; mắc các thể ung thư đặc biệt như ung thư buồng trứng, ung thư tuyết tiệt di căn, ung thư vú bộ ba âm tính (triple-negative breast cancer), ung thư ống tiêu hoá có trên 10 polyps, hoặc có từ hai thành viên trong gia đinh trở lên mắc ung thư.
Việc sàng lọc gene nhằm tìm kiếm các tổn thương ở mức độ gene sẽ không chỉ giúp tiên lượng sớm nguy cơ mắc các bệnh lý ác tính, các bệnh lý di truyền, lựa chọn đối tác sinh con phù hợp mà còn giúp các bác sĩ cá thể hoá chiến lược điều trị, điều trị dự phòng tối ưu hơn cho mỗi cá nhân, mỗi người bệnh.
Đức Trân
Theo daidoanket