Kỹ thuật thay van động mạch chủ qua da được dùng để điều trị các trường hợp hẹp van động mạch chủ nặng.
Kỹ thuật này giúp người giảm thiểu đau đớn, các biến chứng trong và hậu phẫu so với phẫu thuật mổ hở, thời gian phục hồi nhanh, cũng như không để lại sẹo mổ như trước đây.
Ngày 14/10, Trung tâm Tim mạch – Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM đã được trao chứng nhận Trung tâm độc lập thực hiện thủ thuật thay van động mạch chủ qua da. Đây là trung tâm thứ hai tại Việt Nam nhận chứng nhận này, đ.ánh dấu bước phát triển của bệnh viện trong việc ứng dụng thường quy kỹ thuật thay van tim hiện đại nhất thế giới.
Thủ thuật thay van động mạch chủ qua da được Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM triển khai từ cuối năm 2015 với sự chuyển giao kỹ thuật từ các trung tâm có nhiều kinh nghiệm và các chuyên gia trên thế giới. Một trong những bệnh nhân đầu tiên được áp dụng kỹ thuật này là bà Lê Thị K. (78 t.uổi, ngụ tỉnh Gia Lai). Theo đó, tim của bệnh nhân có tình trạng hẹp khít van động mạch chủ do vôi hóa, van động mạch chủ chỉ có 2 mảnh (van tim bình thường có 3 mảnh).
Các bác sĩ chỉ định mổ để thay van tim cách đây nhiều năm nhưng do sức khỏe yếu nên gia đình chưa quyết định mổ cho bệnh nhân. Sau đó, bệnh nhân được thay van động mạch chủ qua da thành công, sức khỏe hồi phục tốt và được xuất viện.
Từ ca thay van động mạch chủ qua da đầu tiên, đến nay, đã có 15 trường hợp hẹp van động mạch chủ nặng được ê kíp y, bác sĩ bệnh viện cứu chữa thành công nhờ kỹ thuật này.
Ê-kíp y, bác sĩ thực hiện ỹ thuật thay van động mạch chủ qua da cho bệnh nhân
PGS.TS.BS Nguyễn Hoàng Định, Phó Giám đốc Trung tâm tim mạch, Trưởng khoa Phẫu thuật Tim mạch – Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM cho biết, với người từ 60 t.uổi trở lên, van tim sẽ bắt đầu bị thoái hóa. Các van tim dễ bị tổn thương và gây ra tình trạng hẹp van hoặc hở van. Khi van động mạch chủ bị hẹp, người bệnh thường có triệu chứng mệt, khó thở, có khi đau ngực, ngất. Nếu người bệnh không điều trị thì tỷ lệ t.ử v.ong sau 2-3 năm rất cao.
Theo bác sĩ Định, biện pháp điều trị truyền thống là phẫu thuật đặt van tim. Tuy nhiên, đây là một cuộc phẫu thuật lớn phải mở lồng ngực và dùng máy tim phổi nhân tạo, thường kéo dài từ 3-4 giờ, thời gian nằm viện khoảng 2 tuần, sau 1-2 tháng mới hồi phục. Những người bệnh cao t.uổi, có kèm các bệnh lý khác khó chịu đựng được những phẫu thuật như vậy.
Trong khi đó, với kỹ thuật thay van động mạch chủ qua da (TAVI), người bệnh sẽ được gây tê khi thực hiện kỹ thuật thay cho gây mê. Bác sĩ sẽ dùng ống thông đi qua động mạch đùi vào bên trong tim. Bên trong ống thông có một van tim nhân tạo được để sẵn, khi ống thông và van tim nhân tạo vào đúng vị trí thì van nhân tạo này sẽ được bung ra thay thế cho van động mạch chủ cũ bị hẹp.
Bác sĩ nhấn mạnh, kỹ thuật thay van động mạch chủ qua da giúp người bệnh giảm thiểu đau đớn, các biến chứng trong và hậu phẫu so với phẫu thuật mổ hở, thời gian phục hồi nhanh từ 2-3 ngày, cũng như không để lại sẹo mổ như trước đây. Trong tương lai, kỹ thuật này có thể dùng cho cả những trường hợp hở van động mạch chủ.
Theo phunuvietnam
Tự mua kháng sinh điều trị khó thở, một bệnh nhân Bến Tre suýt c.hết vì vi khuẩn kháng thuốc gây viêm phổi nặng
Khi đến bệnh viện, bệnh nhân phải đặt nội khí quản, thở máy và bị viêm phổi rất nặng do 1 loại vi khuẩn kháng hầu hết các loại kháng sinh gây ra.
Đó là trường hợp của ông Đ.V.N. (70 t.uổi, ngụ tại Châu Thành, Bến Tre). Trước đó không lâu bệnh nhân liên tục bị khó thở. Bệnh nhân tự mua kháng sinh uống nhưng không thuyên giảm mà ngày một nặng hơn. Tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM (BV ĐHYD TP.HCM), ông N. được nhập vào khoa Hồi sức tích cực trong tình trạng đặt nội khí quản, thở máy và được chẩn đoán là viêm phổi do Klebsiella pneumoniae – một trong những vi khuẩn kháng thuốc gram âm có tỷ lệ đề kháng kháng sinh cao hàng đầu.
Bệnh nhân được điều trị với kháng sinh hàng cuối cùng để điều trị vi khuẩn gram âm đa kháng. Tuy nhiên kết quả cấy đàm sau đó của ông cho thấy vẫn còn tồn tại vi khuẩn Klebsiella pneumoniae đa đề kháng.
Một bệnh nhân điều trị tại BV ĐHYD TP.HCM.
Các bác sĩ đã cùng hội chẩn với dược sĩ lâm sàng tại khoa, quyết định sử dụng phối hợp kháng sinh piperacillin/tazobactam và amikacin (thuộc nhóm aminoglycoside), đồng thời tiến hành theo dõi chức năng thận và đo nồng độ thuốc trong m.áu nhằm tối ưu hóa điều trị.
Nhờ vậy ông N. cải thiện tích cực, hết sốt, ngưng được máy thở. Sau 10 ngày điều trị ông được ngưng kháng sinh nhằm giảm biến chứng liên quan đến sử dụng kháng sinh kéo dài.
Ông N. khỏi hoàn toàn, không bị biến chứng trên thận, t.iền đình ốc tai do kháng sinh và được cho xuất viện sau 3 tuần điều trị.
PGS Đoan Trang nói về vai trò của dược lâm sàng trong quản lý sử dụng kháng sinh.
PGS Đặng Nguyễn Đoan Trang,Trưởng Khoa Dược BV ĐHYD cho biết, đề kháng kháng sinh hiện đang là một vấn đề toàn cầu. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã mô tả những vi sinh vật đề kháng kháng sinh là những “vi khuẩn ác mộng” cho mọi quốc gia trên thế giới.
Các dữ liệu gần đây cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ đề kháng kháng sinh cao nhất ở Châu Á. Tình trạng này xuất phát từ việc các kháng sinh thế hệ mới, hoạt tính kháng khuẩn mạnh chỉ để dành cho các bệnh ký nhiễm khuẩn nặng được sử dụng rộng rãi, thiếu kiểm soát.
Một nguyên nhân khác cũng rất đáng lo ngại là kháng sinh được bán không có toa thuốc của bác sĩ rất phổ biến ở cả thành thị và nông thôn.
Việc sử dụng thuốc không theo chỉ định có thể khiến tình trạng bệnh trở nên trầm trọng hơn, làm gia tăng nguy cơ đề kháng kháng sinh. Do đó, ngay khi có các triệu chứng của bệnh, người dân nên đến cơ sở y tế để được chẩn đoán và chỉ định điều trị cũng như sử dụng đúng thuốc.
Trong trường hợp người dân có thắc mắc về thuốc, nên hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ ngay để được tư vấn sử dụng thuốc phù hợp, tránh sử dụng thuốc không theo chỉ định khiến bệnh trở nên nặng hơn, khó chữa hơn.
Theo PGS Trang, chương trình quản lý sử dụng kháng sinh với sự tham gia của dược sĩ lâm sàng đã được tiến hành rộng rãi trên toàn cầu.
Việc sử dụng thuốc không theo chỉ định có thể khiến tình trạng bệnh trở nên trầm trọng hơn, làm gia tăng nguy cơ đề kháng kháng sinh.
Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định 772/QĐ-BYT hướng dẫn sử dụng kháng sinh trong bệnh viện, đặc biệt nhấn mạnh vào việc thành lập nhóm quản lý sử dụng kháng sinh.
Mục đích của chương trình quản lý sử dụng kháng sinh là tăng cường sử dụng kháng sinh hợp lý, giảm hậu quả không mong muốn khi dùng kháng sinh.
Đồng thời nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh, ngăn ngừa vi khuẩn đề kháng kháng sinh và giảm chi phí y tế.
Theo afamily