Nấm phổi được coi là sát thủ thầm lặng. Đây là căn bệnh có tỷ lệ t.ử v.ong lên tới 50-70%, bệnh khó phát hiện đối với cả người bệnh và nhân viên y tế.
Đặc biệt nguy hiểm có tới 90% người mắc nấm phổi chưa được phát hiện.
Tại Hội thảo khoa học “Những thách thức trong chẩn đoán và điều trị nấm phổi” do Bệnh viện Phổi Trung ương tổ chức vừa qua nhiều kiến thức về chẩn đoán và điều trị nấm phổi đã được tập huấn cho đội ngũ y, bác sĩ công tác tại các cơ sở y tế trên phạm vi cả nước.
Nấm phổi được coi là “ kẻ g.iết n.gười giấu mặt”.
Mỗi năm, trên thế giới có khoảng hơn 2 triệu người t.ử v.ong do các bệnh nấm và gây ra bệnh lâu dài cho hàng trăm triệu người. Việt Nam là nước có gánh nặng bệnh nấm mạn tính đứng thứ 5 trên thế giới với khoảng 15.000 ca nấm phổi xâm lấn mỗi năm, nấm phổi mãn tính do Aspergillus có khoảng 55.000 trường hợp.
Tỷ lệ t.ử v.ong do mắc nấm phổi xâm lấn rất cao dao động 30-80%, đặc biệt nếu không được điều trị 100% bệnh nhân sẽ t.ử v.ong. Nấm phổi mạn tính do Aspergillus nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời sau 5 năm tỷ lệ t.ử v.ong xấp xỉ 50%.
Khoảng 50% người đã từng mắc bệnh lao đến khám lại tại các cơ sở chuyên khoa hô hấp đều mắc nấm phổi do Aspergillus. Đáng báo động hơn, 90% người nhiễm nấm phổi còn sót ngoài cộng đồng, nếu không được tầm soát và phát hiện sớm để điều trị kịp thời, nguy cơ bệnh nặng và t.ử v.ong rất cao.
Các bệnh do nấm là một mối đe dọa sức khỏe toàn cầu, tuy nhiên hiện nay căn bệnh này chưa có sự quan tâm đúng mức trong việc tiếp cận chẩn đoán và điều trị. Người mắc bệnh nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời, mỗi năm sẽ có khả năng ngăn ngừa 1,3 triệu ca t.ử v.ong do các bệnh về nhiễm nấm, đặc biệt là nấm phổi.
TS.Đinh Văn Lượng, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương cho biết, nấm mốc tồn tại phổ biến ở ngoài môi trường, nhưng thường gây bệnh ở người có hệ miễn dịch suy giảm, hoặc có bệnh lý nền là bệnh phổi.
Bệnh nấm phổi hay gặp nhất là do nấm Aspergillus. Đây là một bệnh n.hiễm t.rùng gây ra bởi một loại nấm mốc rất phổ biến và có mặt ở trong nhà và ngoài môi trường.
Mặc dù mọi người thường hít phải loại nấm này từ không khí, nhưng loại nấm này chỉ ảnh hưởng đến những người người có hệ miễn dịch suy giảm nặng như bệnh nhân ung thư m.áu, ung thư các cơ quan khác, sau cấy ghép tạng hoặc điều trị các thuốc ức chế miễn dịch dài ngày.
Loại nấm này có thể gây bệnh ở những người đã/đang có bệnh tại phổi, chẳng hạn như những bệnh nhân đã từng mắc lao phổi, hen suyễn hay xơ nang phổi.
Theo TS.BS Đinh Văn Lượng, nấm phổi là căn bệnh khó phát hiện ngay cả với nhân viên y tế. Trên thế giới, t.ử v.ong liên quan đến các bệnh về nấm khoảng 3,8 triệu người mỗi năm, cao hơn t.ử v.ong do lao (1,3 triệu ca), gấp 5 lần t.ử v.ong do sốt rét. Riêng tại Việt Nam, nấm Aspergillus xâm lấn là 23.470 ca, nấm Aspergillus mãn tính 115.000 ca.
Nhiễm nấm Aspergillus có tỷ lệ t.ử v.ong cao và là thách thức đối với nhiều y bác sĩ trong việc chẩn đoán đúng và phát hiện sớm, nhưng TS.BS Đinh Văn Lượng cho rằng, một số nhóm đối tượng có nguy cơ cao mắc nấm Aspergillus mà nhân viên y tế có thể nghĩ tới là người bệnh COPD nhập viện nhưng không đáp ứng với điều trị kháng sinh, bệnh nhân có chẩn đoán lao phổi có hang, hay đã điều trị nhiễm khuẩn phổi tái đi tái lại, hay người mắc hen….
Theo Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương, hiện chi phí điều trị một ca nấm phổi rất lớn, có ca nặng phải gánh chi phí lên tới hàng trăm triệu đồng. Vì thế, bảo hiểm y tế đóng vai trò quan trọng để người bệnh nấm phổi được điều trị, tránh bỏ sót ngoài cộng đồng.
Còn theo bác sĩ Nguyễn Bích Ngọc, Trưởng khoa Hô hấp, Bệnh viện Phổi Trung ương, Bệnh viện Phổi Trung ương đã trình Bộ Y tế hướng dẫn về chẩn đoán và điều trị nhiễm nấm Aspergillus mãn tính. Nếu được phê duyệt, sẽ giúp cho các bác sĩ trong lĩnh vực truyền nhiễm và bệnh hô hấp trong việc chẩn đoán và điều trị căn bệnh khó phát hiện này.
TS.Nguyễn Bích Ngọc cũng cảnh báo, với những bệnh nhân COPD, bệnh nhân nằm hồi sức tích cực điều trị lâu ngày mà không có chuyển biến, người bệnh ung thư đang truyền hóa chất, hoặc đã từng mắc lao, từng phẫu thuật phổi… mà bị ho ra m.áu nhưng không có vi khuẩn lao trong đờm, nhân viên y tế cần nghĩ đến khả năng bệnh nhân có thể nhiễm nấm Aspergillus. “Thuốc điều trị nấm rất đắt. Bệnh nhân phải điều trị dài ngày nên chi phí rất cao”, TS.Nguyễn Bích Ngọc cho hay.
Để bảo vệ sức khỏe của những người có hệ miễn dịch suy giảm, người có nguy cơ cao nhiễm nấm Aspergillus như nói ở trên, TS.Nguyễn Bích Ngọc khuyên, người bệnh không nên đến những nơi tập trung đông người, nếu bắt buộc phải đi tới những địa điểm có nguy cơ với sức khỏe, người bệnh cần đeo khẩu trang để phòng nhiễm nấm Aspergillus.
Hiện nay, Bệnh viện Phổi Trung ương, Chương trình Chống lao Quốc gia đang triển khai xây dựng hướng dẫn chẩn đoán điều trị nấm Aspergillus phổi mạn tính nhằm áp dụng tối ưu các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, hỗ trợ công tác chẩn đoán và điều trị bằng một mạng lưới chuyên khoa từ trung ương đến tuyến cơ sở để phát hiện sớm và chăm sóc hiệu quả lâu dài cho người dân.
Để phòng bệnh nấm phổi, người dân cần thường xuyên rèn luyện thân thể, ăn nhiều hoa quả tươi, nâng cao sức đề kháng. Tránh để nấm mốc trong nhà, đồ đạc sắp xếp gọn gàng, đủ ánh nắng, thông gió tránh ẩm ướt. Khi vệ sinh nhà cửa cần mang khẩu trang để tránh hít phải bụi nấm.
Cô gái 23 t.uổi đột quỵ do một nguyên nhân phổ biến
Liên tiếp trong thời gian ngắn, nhiều người trẻ bị đột quỵ xuất huyết não, nguyên nhân chủ yếu do ‘sát thủ thầm lặng’ mang tên tăng huyết áp.
Phó giáo sư Nguyễn Huy Thắng – Phó Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam cho biết, trong thời gian vừa qua, ông liên tục nhận được thông tin các ca đột quỵ ở người trẻ. Một bệnh nhân n.ữ s.inh năm 2001 vào viện cấp cứu trong tình trạng đau đầu dữ dội. Bác sĩ chẩn đoán đột quỵ xuất huyết não, hiện người bệnh đang thở máy.
Phó giáo sư Thắng chia sẻ, các bác sĩ vẫn đang hồi sức tích cực cho bệnh nhân nhưng cơ hội hồi tỉnh mỏng manh, nếu cứu sống được, di chứng vẫn nặng nề. Gia đình “khóc hết nước mắt” vì người bệnh còn trẻ, cao huyết áp không uống thuốc.
Phó giáo sư Nguyễn Huy Thắng khám bệnh cho bệnh nhân. Ảnh: BSCC.
Trường hợp khác là nữ bệnh nhân 38 t.uổi được người thân chuyển đến từ Cần Thơ. Phim chụp CT cho thấy hình ảnh xuất huyết rất lớn bán cầu T. Với thể tích m.áu lớn như vậy, khả năng cứu sống gần như bằng không. Cô đến phòng cấp cứu trong tình trạng hôn mê sâu, đồng tử giãn 2 bên, huyết áp 240 mmHg. Gia đình hoàn toàn không biết bệnh nhân đã bị tăng huyết áp trước đó. Cấp cứu vào buổi trưa, đến chiều, các y bác sĩ giải thích không thể cứu được nên gia đình đã đưa bệnh nhân về lo hậu sự.
Phó giáo sư Thắng cho biết, từ tháng 11 tới nay, ông liên tục nhận được các cuộc gọi “gửi gắm” người thân bị đột quỵ, đa phần đều là c.hảy m.áu não và bệnh nhân còn rất trẻ, có t.iền sử tăng huyết áp.
Đột quỵ có hai thể là nhồi m.áu não và xuất huyết não. Cho đến nay, y học hiện đại vẫn gặp khó khăn với cấp cứu xuất huyết não. Tỷ lệ t.ử v.ong cao, di chứng nhiều.
Nghiên cứu Enrich của Giáo sư Gustavo Pradilla công bố tại nghị thường niên Phẫu thuật Thần Kinh Mỹ cho thấy phẫu thuật chọc hút xâm lấn tối thiểu có thể cho hiệu quả khác biệt so với điều trị nội khoa đơn thuần. Tuy nhiên, ít bệnh viện tại Việt Nam (đặc biệt là bệnh viện công lập) có thể thực hiện kỹ thuật này theo đúng quy trình vì gặp khó khăn về dụng cụ. Khi gặp bệnh nhân xuất huyết não, các thầy thuốc đều hiểu, điều trị nội khoa bảo tồn tác động rất ít đến diễn tiến bệnh.
Vì vậy, dự phòng xuất huyết não được xem là vấn đề quan trọng. Trong đó, tăng huyết áp là “thủ phạm” gây ra hơn 90% trường hợp xuất huyết não. Việc kiểm soát chặt huyết áp là chiếc chìa khóa vàng trong điều trị phòng ngừa.
Theo khuyến cáo hiện nay của Hội Đột quỵ Mỹ, huyết áp nên được duy trì dưới 130/80 mmHg đối với các bệnh nhân có t.iền căn xuất huyết não. Trên những bệnh nhân t.iền căn đột quỵ có mức huyết áp bình thường dưới 120 mmHg.
Theo y văn, 70% trường hợp đột quỵ có thể tránh được nếu được dự phòng sớm, đối với xuất huyết não tỷ lệ này còn lớn hơn. Mức huyết áp tâm thu ổn định trong khoảng 90-120 mmHg giúp người bệnh tránh biến cố.
Tuy nhiên, trên thực tế tại Việt Nam, bác sĩ Thắng cho biết việc tuân thủ điều trị, đặc biệt ở người trẻ, là trở ngại rất lớn. Hầu hết người bị tăng huyết áp đều không có triệu chứng trước khi đột quỵ. Nhiều bệnh nhân trẻ đến khám với huyết áp 240 mmHg nhưng vẫn không có biểu hiện gì khác lạ.
Tăng huyết áp ở người trẻ có nhiều nguyên nhân. Trong đó, ăn nhiều thức ăn nhanh, chế biến mặn dễ gây tăng huyết áp.
Đột quỵ xuất huyết não xảy ra khi động mạch não bị nứt vỡ và c.hảy m.áu vào nhu mô não. Trong vòng vài phút, các tế bào não c.hết đi gây ra các biến chứng về thần kinh và vận động liên quan đến vùng não bị tổn thương. Triệu chứng là đột ngột buồn nôn, nôn, đau đầu, nhanh chóng thay đổi ý thức, hôn mê.