Dinh dưỡng không hợp lý, dinh dưỡng thiếu lành mạnh là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây gia tăng các bệnh lây nhiễm, làm thay đổi mô hình bệnh tật và t.ử v.ong ở Việt Nam, với 75% tỷ lệ t.ử v.ong là do các bệnh không lây nhiễm, trong đó đứng đầu là các bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường, gout…
Ảnh minh họa.
Chế độ dinh dưỡng với bệnh không lây nhiễm
Theo thống kê, bệnh mạn tính không lây đang là nguyên nhân dẫn đến t.ử v.ong của 40 triệu người trên thế giới mỗi năm. Ở Việt Nam các bệnh không lây nhiễm đang gia tăng nhanh chóng, là nhóm bệnh có tỉ lệ t.ử v.ong cao nhất, chiếm 73% các trường hợp.
Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, phát triển kinh tế và toàn cầu hóa thị trường đã có những ảnh hưởng nhất định đến lối sống, chế độ ăn, tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của quần thể dân cư, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Mức sống cải thiện, thực phẩm sẵn có tràn ngập… đã làm gia tăng các hậu quả liên quan đến thay đổi lối sống và thói quen ăn uống không hợp lý, ít hoạt động thể lực và sử dụng t.huốc l.á thường xuyên dẫn đến sự gia tăng các bệnh không lây nhiễm.
Càng ngày càng có nhiều bằng chứng khoa học chứng minh rằng, việc thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý, dinh dưỡng lành mạnh có tác động mạnh mẽ tới sức khỏe của mỗi con người trong suốt cả cuộc đời, thậm chí liên quan đến cả thế hệ sau của họ (dinh dưỡng với chu kỳ vòng đời). Hành vi ăn uống thiếu khoa học không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe hiện tại mà còn có thể là nguyên nhân của các bệnh như ung thư, bệnh tim mạch và đái tháo đường sau này hay không.
Đề phòng bệnh không lây nhiễm
Các bệnh không lây nhiễm có thể xảy ra ở mọi lứa t.uổi. Thiếu và thừa các chất dinh dưỡng đều tác động tiêu cực tới sự phát triển những căn bệnh này. Vì vậy, việc thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý là rất cần thiết trong phòng bệnh không lây nhiễm.
Không có một thức ăn nào là toàn diện và có đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết theo nhu cầu cơ thể. Mỗi loại thức ăn có chứa một số loại chất dinh dưỡng nhất định với tỷ lệ khác nhau, cho nên bữa ăn hàng ngày cần đa dạng và phối hợp nhiều loại thực phẩm. Các chất dinh dưỡng của các loại thực phẩm này sẽ bổ sung cho nhau và giá trị dinh dưỡng của bữa ăn sẽ tăng lên. Trong khẩu phần ăn hàng ngày nên có sự phối hợp giữa nguồn chất đạm động vật và thực vật (thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, hải sản… đậu, đỗ…).
Ngoài ra, nên có cả dầu thực vật và mỡ động vật ở tỷ lệ cân đối trong khẩu phần ăn. Tăng cường ăn vừng lạc, đậu đỗ, rau xanh và hoa quả chín. Không nên ăn các thức ăn nhanh, thức ăn chế biến sẵn vì có nhiều muối/ngọt/mỡ, thức ăn có chỉ số đường huyết cao. Ăn đủ nhu cầu, cần phân chia hợp lý các bữa ăn trong ngày (tùy theo lứa t.uổi, tình trạng sức khỏe, mức độ lao động); Không nên ăn mặn, sử dụng muối iod trong chế biến thức ăn; Tăng cường hoạt động thể lực phù hợp với lứa t.uổi; Duy trì cân nặng ở mức “nên có”.
Hiện nay, chế độ dinh dưỡng hợp lý phòng chống bệnh không lây nhiễm được khuyến nghị là: Chế độ ăn cần đủ các chất dinh dưỡng so với nhu cầu cơ thể, ăn đa dạng các loại thực phẩm, các chất dinh dưỡng ở tỷ lệ cân đối giữa nguồn gốc động vật và nguồn gốc thực vật.
Lương thực: Đầu tiên phải kể đến là nhóm ngũ cốc, là nguồn cung cấp năng lượng chính cho cơ thể hoạt động. Hiện nay trên thị trường thường bán các loại gạo trông rất trắng và đẹp mắt do quá trình xay sát kỹ nên đã làm mất đi các chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe như các vitamin nhóm B nhất là vitamin B1, chất xơ… Gạo lứt là gạo không bị xay sát kỹ, vẫn còn lớp cám gạo bên ngoài hạt gạo, có chứa hàm lượng dinh dưỡng cao hơn và đã được chứng minh có tác dụng hỗ trợ trong việc kiểm soát đường huyết, để hỗ trợ dự phòng và điều trị bệnh đái tháo đường. Ngoài ra, cũng nên ăn thay đổi các loại ngũ cốc khác nhau (như khoai lang, khoai tây, ngô …) để làm đa dạng bữa ăn và các chất dinh dưỡng, tăng cường lợi ích cho sức khỏe.
Chất đạm: Cần ăn phối hợp cả thực phẩm giàu đạm động vật từ các loài gia súc, gia cầm, hải sản và đạm thực vật từ các loại đậu, đỗ… Nên ăn thức ăn giàu đạm với tỉ lệ cân đối giữa nguồn đạm động vật và thực vật, tăng cường ăn đậu phụ và cá. Các loại thịt đỏ (như thịt lợn, thịt bò …) có nhiều sắt giúp phòng chống thiếu m.áu thiếu sắt, đặc biệt quan trọng đối với trẻ nhỏ, phụ nữ có thai và phụ nữ trong t.uổi sinh đẻ. Tuy nhiên, chỉ nên ăn lượng vừa phải, vì ăn nhiều thịt đỏ lại làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, ung thư, gout…
Chất béo: Cần đảm bảo một tỉ lệ cân đối giữa nguồn chất béo động vật (mỡ lợn, mỡ gà,…) và chất béo thực vật (dầu, đậu tương, vừng, lạc…). Nên giữ trong khẩu phần hàng ngày ít nhất là 40% chất béo thực vật, chất béo động vật không nên vượt quá 60%, nên ăn phối hợp cả mỡ động vật và dầu thực vật, không nên thay thế hoàn toàn mỡ động vật bằng các chất béo thực vật. Dầu, mỡ để rán chỉ dùng một lần rồi đổ bỏ; hạn chế ăn đồ nướng vì làm tăng nguy cơ gây ung thư.
Rau và quả chín: Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo nên ăn ít nhất 400 gam rau, quả mỗi ngày có tác dụng phòng chống các bệnh mạn tính liên quan đến dinh dưỡng như các bệnh tim mạch, ung thư dạ dày và ung thư đại trực tràng. Những người thừa cân, béo phì, rối loạn glucose m.áu, đái tháo đường nên lưu ý hạn chế các loại quả chín ngọt và nhiều năng lượng như chuối, xoài, mít, vải…
Theo kinhtedothi
Chế độ ăn cần kết hợp hài hòa đạm động vật và đạm thực vật
Sự phối hợp hài hòa giữa đạm động vật và đạm thực vật đóng một vai trò rất quan trọng cho một cơ thể phát triển khỏe mạnh.
Một chế độ ăn cân đối giữa đạm động vật và đạm thực vật nhằm hạn chế việc sinh ra các yếu tố bất lợi cho sức khỏe và nâng cao vai trò của chất đạm.
Vai trò của protid
Protid hay còn gọi là chất đạm là thành phần cơ bản của cơ thể sống. Nó tham gia vào thành phần mối tế bào và là yếu tố tạo hình chính của các cơ quan, bộ phận trong cơ thể. Một số protid đặc hiệu có vai trò đặc biệt quan trọng, chúng tham gia vào các thành phần các men, nội tiết tố, kháng thể và các hợp chất khác.
Các axit amin là thành phần chính của phân tử protid, chúng liên kết với nhau trong những liên kết khác nhau. Giá trị dinh dưỡng của protid được quyết định bởi mối liên quan về số lượng và chất lượng của các axit amin khác nhau trong cấu trúc protid đó. Nhờ quá trình tiêu hóa, protid thức ăn được phân giải thành các axit amin. Các axit amin được hấp thụ từ ruột vào m.áu rồi tới các tổ chức, tại đây nó được sử dụng để tổng hợp protid đặc hiệu cho cơ thể.
Một số axit amin được gọi là axit amin cần thiết vì khi thiếu nó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể và chúng không được tổng hợp bên trong cơ thể mà còn được cung cấp đầy đủ qua thức ăn.
Các axit amin cần thiết: gồm methionin, lysintrytophan, phenylalanine, loxin, isoloxin, treonin, valin. Đối với t.rẻ e.m, acginin và hitidin cũng là axit amin cần thiết. Các axit amin này rất quan trọng không chỉ giới hạn ở sự tham gia của chúng vào tổng hợp đạm trong cơ thể. Mỗi axit amin cần hoàn thành nhiều chức phận phức tạp và quan trọng khác, một số tham gia vào chức phận tuyến nội tiết như tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận, tuyến s.inh d.ục, một số axit amin có liên quan đến quá trình tạo m.áu.
Các axit amin không cần thiết: (hay còn gọi là axit amin có thể thay thế được) chiếm một tỷ lệ quan trọng trong thành phần thức ăn. Cơ thể có thể tổng hợp được các axit amin này nhưng quá trình tổng hợp bên trong chỉ đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của cơ thể do đó cần đưa vào cơ thể hợp lý các axit amin trong thành phần đạm của chế độ ăn.
Bữa ăn cần có đa dạng các thức ăn giàu đạm có nguồn gốc từ động vật và thực vật ở tỷ lệ thích hợp để kiến tạo một cơ thể khỏe mạnh.
Sự cần thiết phải kết hợp giữa đạm động vật và đạm thực vật
Nhìn chung đạm thực vật (đạm trong đậu đỗ, ngũ cốc, khoai củ,…) có giá trị sinh học kém hơn đạm động vật do thiếu một hay nhiều axit amin cần thiết hoặc sự sắp xếp các axit amin không cân đối. Tuy nhiên đạm động vật (đạm trong thịt, cá, trứng, hải sản…) không ở dưới dạng đơn thuần mà ở dưới dạng liên hợp như nucleoprotid (là phức hợp của protein với chất béo như photolipid, cholesterol…). Do vậy quá trình chuyển hóa sẽ tạo ra các sản phẩm độc hại cho cơ thể như ure, axit uric, nitrat, cholesterol… Nếu nồng độ axit uric tăng cao trong m.áu là tăng nguy cơ mắc bệnh goute.
Nếu lượng nitrit, nitrat cao trong m.áu sẽ phối hợp với các gốc oxy tự do sẵn có trong cơ thể tạo thành nitrosamin là chất gây ung thư. Nếu cholesterol tăng cao trong m.áu là yếu tố nguy cơ gây xơ vữa động mạch dẫn đến các tai biến nghiêm trọng như tăng huyết áp, nhồi m.áu cơ tim, vỡ mạch m.áu não gây t.ử v.ong cao… Do đó cần thực hiện chế độ ăn cân đối giữa đạm động vật và đạm thực vật sẽ hạn chế việc sinh ra các yếu tố không có lợi cho sức khỏe và nâng cao vai trò của chất đạm. Trước hết cần có sự cân đối về thành phần các chất sinh năng lượng (protid, lipid, gluxid trong khẩu phần.
Đối với người trưởng thành tỷ lệ cung cấp năng lượng trong bữa ăn hàng ngày của các thành phần trên nên đạt như sau:
P : L: G = 14% : 20% : 66%
Đối với t.rẻ e.m tỷ lệ này nên là:
P : L : G = 18% : 25% : 57% .
Ngoài tương quan với các thành phần sinh năng lượng khác như đã nói ở trên cần có sự cân đối với protid nguồn gốc động vật và protid nguồn gốc thực vật. Trước đây nhiều tài liệu cho rằng lượng protid động vật nên đạt từ 50-60% tổng số protid trong khẩu phần. Quan điểm dinh dưỡng hiện nay cho rằng đối với người trưởng thành lượng protid động vật chỉ nên đạt khoảng 25-30% tổng số protid là thích hợp. Đối với t.rẻ e.m tỷ lệ này nên cao hơn (đạm động vật chiếm khoảng 50-70% tổng số). Thực ra nguồn protid thực vật rất phong phú, tỷ lệ đạm trong nhiều thức ăn thực vật rất cao.
Tỷ lệ đạm trong thịt bò là 18g/100g; thịt lợn nạc là 19g/100g, cá chép là 17g/100g; trứng gà là 16g/100g, nhưng trong các loại đậu đỗ tỉ lệ protein chiếm tới 21-25g/100g đặc biệt trong đỗ tương đạm cao tới 35-40g/100g (tuy nhiên giá trị sinh học của đạm trong đậu đỗ, vừng lạc, ngũ cốc… thấp hơn thịt, cá, trứng, tôm, cua,… do vậy sự hấp thụ kém hơn). Nếu chúng ta khéo phối hợp sẽ có một nguồn chất đạm hỗn hợp rất phong phú có giá trị sinh học cao. Để đảm bảo cân đối chất đạm, bữa ăn cần có đa dạng các thức ăn giàu đạm có nguồn gốc từ động vật và thực vật ở tỷ lệ thích hợp.
BS. Anh Đức
Theo SK&ĐS