Trong năm 2018, chỉ khoảng 54% bệnh nhân nhiễm HIV trong độ t.uổi từ 0-14 t.uổi (tương đương 790.000 trường hợp) được tiếp cận thuốc ART.
Ảnh minh họa. (Nguồn: Getty Images)
Ngày 26/11, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) ra thông báo cho biết trong năm 2018, trung bình một ngày đã có khoảng 320 t.rẻ e.m và trẻ v.ị t.hành n.iên t.ử v.ong vì các nguyên nhân liên quan đến đại dịch HIV/AIDS.
Thông báo của UNICEF nêu rõ bên cạnh những hạn chế trong công tác phòng ngừa, những khó khăn trong việc tiếp cận thuốc kháng virus (ART) chính là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tỷ lệ t.ử v.ong.
Trong năm 2018, chỉ khoảng 54% bệnh nhân nhiễm HIV trong độ t.uổi từ 0-14 t.uổi (tương đương 790.000 trường hợp) được tiếp cận thuốc ART.
Giám đốc điều hành của UNICEF Henrietta Fore khẳng định thế giới đã đạt bước tiến chưa từng có trong cuộc chiến chống HIV/AIDS, song bà cũng cảnh báo: “Chúng ta không được bằng lòng với thành công từ những bước tiến này.”
Các dữ liệu của UNICEF cho thấy sự mất cân đối giữa các khu vực trong việc đảm bảo quyền được điều trị cho t.rẻ e.m đang sống chung với HIV. Trong đó, mức độ tiếp cận điều trị tốt nhất được ghi nhận ở khu vực Nam Á (91%), tiếp theo là Trung Đông-Bắc Phi (73%), Đông và Nam Phi (61%), Đông Á-Thái Bình Dương (61%), châu Mỹ Latinh-Caribe (46%), Tây và Trung Phi (28%).
Tỷ lệ các bà mẹ nhiễm HIV được điều trị bằng ART nhằm ngăn ngừa nguy cơ lây nhiễm sang con đã gia tăng trên phạm vi toàn cầu, từ mức 44% tại thời đ.iểm gần 10 năm trước lên 82% hiện nay.
Tuy nhiên, tỷ lệ này không đồng đều giữa các khu vực trên thế giới. Đứng đầu trong thống kê của UNICEF là khu vực Đông Nam Phi (92%), tiếp theo là châu Mỹ Latin và Caribe (79%), Tây và Trung Phi (59%), Nam Á (56%), Đông Á-Thái Bình Dương (55%) và Trung Đông-Bắc Phi (53%).
Theo bà Fore, mặc dù đối mặt nguy cơ nhiễm HIV nhưng nhiều t.rẻ e.m không được xét nghiệm và điều trị kịp thời đang gây ra những hậu quả nặng nề bằng chính mạng sống và tương lai của những bệnh nhi này.
Do đó, các sáng kiến trong cuộc chiến chống HIV phải được cung cấp đầy đủ về tài chính và trang thiết bị nhằm bảo vệ, cải thiện chất lượng sống trong những năm đầu đời của trẻ.
Năm 2018 ghi nhận thêm 160.000 t.rẻ e.m trong độ t.uổi từ 0-9 t.uổi bị phát hiện nhiễm HIV, nâng tổng số bệnh nhân trong nhóm t.uổi này lên tới 1,1 triệu người./.
Trường Dụy
Theo TTXVN/Vietnamplus
Cần toàn ngành nhi khoa “vào cuộc” để thanh toán lao t.rẻ e.m
Để tiến tới thanh toán lao t.rẻ e.m tại Việt Nam, cần phải có sự vào cuộc của toàn ngành nhi khoa để giúp các bệnh nhi được tiếp cận theo đúng phác đồ điều trị của Chương trình Chống lao Quốc gia.
Các bệnh nhi nằm điều trị lao tại Bệnh viện Phổi Trung ương.
Sáng 26-11, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phối hợp Chương trình chống Lao quốc gia Việt Nam tổ chức Hội nghị tham vấn khung kế hoạch tiến tới thanh toán lao t.rẻ e.m ở các nước có gánh nặng bệnh lao cao khu vực Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Hội nghị thảo luận về các vấn đề tầm soát, phát hiện sớm, thuốc điều trị, sự phối hợp y tế công – tư, sự vào cuộc của hệ thống chính trị nhằm tiến tới mục tiêu thanh toán bệnh lao ở t.rẻ e.m và trẻ v.ị t.hành n.iên.
Dễ nhầm lẫn chẩn đoán lao t.rẻ e.m với bệnh hô hấp
Tại các nước có gánh nặng bệnh lao cao, t.rẻ e.m mắc lao chiếm 10-11% tổng số những trường hợp bệnh lao mới mắc hằng năm. Số t.rẻ e.m được chẩn đoán mắc bệnh lao tăng chậm, khoảng 1.700 trường hợp mỗi năm, từ năm 2015 đến 2018.
Theo WHO, năm 2017 có một triệu t.rẻ e.m bị mắc lao, gần 650 t.rẻ e.m chết vì bệnh lao mỗi ngày, 80% trước khi đến sinh nhật lần thứ năm. Trong năm 2017, 87% trường hợp mắc lao mới được phát hiện ở 30 quốc gia có gánh nặng cao, 2/3 trong số này đến từ các quốc gia thuộc khu vực Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. WHO cũng ước tính, có khoảng 9% các trường hợp mắc lao ở Việt Nam được tìm thấy ở t.rẻ e.m dưới 15 t.uổi (khoảng 10.800 bệnh nhân) vào năm 2015.
Theo BS Nguyễn Thị Ngoạn, Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Phổi Trung ương, bệnh lao ở t.rẻ e.m khó nhận biết bởi biểu hiện thường giống với các bệnh hô hấp thông thường khác với các biểu hiện ho sốt, về chiều sốt thất thường, ăn kém, ra mồ hôi trộm, gầy sút cân, không tăng cân.
Những bệnh nhi này khi đã được điều trị theo các biện pháp khác, thí dụ như điều trị không đáp ứng với kháng sinh, khỏi nhưng mà lại tái phát nhanh, hoặc là không khỏi thì có thể nghĩ đến đấy là triệu chứng của bệnh lao. Các thể lao thường gặp ở trẻ nhỏ, đa số là lao sơ nhiễm và các thể lao sau sơ nhiễm thí dụ như là lao phổi, lao hạch, lao màng não, lao kê, …
Giám đốc Chương trình chống Lao Quốc gia cho biết, bệnh lao ở t.rẻ e.m là một bệnh khó vì các triệu chứng lâm sàng ở t.rẻ e.m không rõ ràng, trẻ cũng chưa nhận thức được tình trạng bệnh lý của mình. Bên cạnh đó, số vi khuẩn ở t.rẻ e.m mắc lao ít. “Ở thể lao gọi là lao sơ nhiễm tức là lao mới nhiễm vào, việc chẩn đoán cũng khó khăn. Do vậy, nếu chúng ta dựa vào cái bằng chứng là có vi khuẩn thì sẽ rất khó đối với t.rẻ e.m. Đặc biệt là đôi khi chính các thầy thuốc lãng quên, không nghĩ rằng có lao ở trẻ em”, BS Nhung nói.
Các ước tính mới nhất cho thấy 36% bệnh nhân lao bị mất tích, nghĩa là có khoảng 3,6 triệu bệnh nhân lao có thể không được chẩn đoán và điều trị đúng cách. Do đó, việc tìm kiếm và điều trị tất cả các trường hợp mắc lao bao gồm cả t.rẻ e.m và thanh thiếu niên là ưu tiên hoạt động khẩn cấp, đặc biệt là ở các nước có gánh nặng bệnh lao cao. Điều này sẽ giúp các em tránh được được những biến chứng nguy hiểm như mù lòa, động kinh, teo cơ, bại liệt, gù vẹo cột sống…
Các đại biểu tại Hội nghị tham vấn khung kế hoạch tiến tới thanh toán lao t.rẻ e.m ở các nước có gánh nặng bệnh lao cao khu vực Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương.
Toàn ngành nhi khoa cùng vào cuộc
Tại Việt Nam, hiện có 60% bệnh nhân lao thường, 98% bệnh nhân lao kháng thuốc và gia đình đối mặt với những chi phí thảm họa – nghĩa là dành hơn 20% thu nhập của gia đình cho việc điều trị. Khác với bệnh khác, điều trị lao cần thời gian dài, ít nhất là sáu tháng, thậm chí đến hai năm nếu là lao kháng thuốc, có những bệnh nhân không kiên trì, không tuân thủ điều trị nên dễ tái phát. Do vậy, nguy cơ lây bệnh sang những người khác rất cao.
Để giải quyết bài toán thanh toán lao ở t.rẻ e.m, PGS, TS Nguyễn Viết Nhung cho hay, Việt Nam cần phải phối hợp với hệ thống mạng lưới bác sĩ nhi khoa, tất cả các phòng khám nhi khoa kể cả phòng khám tư nhân để làm sao các bệnh nhi được tiếp cận theo đúng phác đồ điều trị của chương trình chống lao quốc gia.
“Trong một năm qua, chúng tôi đã cộng tác ký hợp đồng với Hội Nhi khoa và Bệnh viện Nhi Trung ương để toàn bộ mạng lưới nhi khoa của Việt Nam sẽ vào cuộc để cho các cháu có thể được tiếp cận sớm, điều trị sớm khi phát hiện bệnh”, BS Nhung nói.
Ông Nguyễn Trọng Khoa, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, Bộ Y tế cho biết, từ năm 2013 đến nay, Việt Nam đã đào tạo hơn 300 nhân viên bệnh viện đa khoa tại chín tỉnh về nhi khoa, cũng như mở rộng can thiệp bệnh lao ở t.rẻ e.m dưới sự hợp tác của Bệnh viện Nhi Trung ương. Kế hoạch phòng chống lao ở t.rẻ e.m quốc gia 2015-2020 và sửa đổi mới hướng dẫn quản lý bệnh lao t.rẻ e.m quốc gia đã được cập nhật từ thực hiện trên toàn quốc từ giữa năm 2018.
Thành lập Đơn vị Lao t.rẻ e.m từ năm 2018, GS, TS Lê Thanh Hải, Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương thông tin hiện nay, đơn vị Lao đang quản lý hơn 50 bệnh nhi và đã có những phương pháp điều trị sớm để tránh những biến chứng xảy ra đối với những bệnh nhi này. Ông đ.ánh giá đây là một hướng tiếp cận toàn diện để giúp phát hiện sớm bệnh nhi lao trong cộng đồng và cùng có một phác đồ điều trị chuẩn ở các cơ sở.
Giám đốc Chương trình Chống lao Quốc gia cũng nhấn mạnh, để tiến tới thanh toán lao ở t.rẻ e.m, cần phải giải quyết hai vấn đề. Về kỹ thuật chuẩn đoán ở t.rẻ e.m sẽ không quá phụ thuộc vào chuẩn đoán vi khuẩn. Do đó, trong hướng dẫn mới khuyến cáo ba dấu hiệu: có triệu chứng lâm sàng như lao, có t.iền sử tiếp xúc với người bệnh lao trong vòng một năm, có bất thường trên phim X-quang phổi nghi lao. “Chỉ cần hai trong ba dấu hiệu đó là ta phải nghĩ đến lao”, BS Nhung cho hay.
TRẦN NGUYÊN
Theo Nhân dân