Đậu nành là loại thực vật phổ biến và rất có lợi cho sức khỏe. Chúng được sử dụng dưới nhiều dạng khác nhau, từ sữa đậu nành, đậu hũ đến đậu nành rang.
Thế nhưng, một số người cần tránh dùng đậu nành vì bị dị ứng.
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) xếp đậu nành là 1 trong 8 loại thực phẩm gây dị ứng nhiều nhất. 8 loại này gồm đậu phộng, đậu nành, sữa, trứng, lúa mì, cá, động vật có vỏ và các loại quả hạch, theo chuyên trang sức khỏe Healthline (Mỹ).
Khi thấy các triệu chứng dị ứng thì người mắc cần ngưng tiêu thụ các sản phẩm làm từ đậu nành ngay lập tức. Ảnh SHUTTERSTOCK
Dị ứng thực phẩm xảy ra khi cơ thể phản ứng với một loại protein trong thực phẩm cụ thể nào đó. Protein này vô hại với người bình thường nhưng với người bị dị ứng, hệ miễn dịch sẽ nhận diện chúng là tác nhân gây hại và tấn công, gây nên phản ứng dị ứng.
Khi thấy các triệu chứng dị ứng, người mắc cần ngưng sử dụng đậu nành và các sản phẩm làm từ đậu nành ngay lập tức. Một số triệu chứng dị ứng đậu nành thường gặp là nổi mề đay, phát ban, phù mạch, da bị sưng và ngứa. Các triệu chứng hô hấp như thở khò khè, hen suyễn, chảy nước mũi, nghẹt mũi hay sưng thanh quản cũng có thể xuất hiện.
Các triệu chứng dị ứng ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa là tiêu chảy, đau bụng, buồn nôn, ói mửa và ngứa miệng. Hầu hết các triệu chứng dị ứng đậu nành là nhẹ.
Người bị dị ứng cần tránh các món có thành phần là đậu nành. Các món này thường gặp là sữa đậu nành, tàu hủ, nước tương, các sản phẩm làm từ đậu nành để thay thế sữa như pho mát, kem đậu nành, nước hầm nấu từ đậu nành và các các loại thực phẩm bổ sung có nguồn gốc là protein đậu nành.
Dù đã cố gắng loại bỏ các món có đậu nành trong chế độ ăn nhưng thỉnh thoảng người bị dị ứng vẫn ăn phải một số món có thành phần đậu nành mà không biết. Khi đó, các triệu chứng thường là nhẹ đến trung bình như ngứa hay nổi mề đay.
Người bệnh có thể được điều trị bằng thuốc kháng histamine, có tác dụng ngăn cơ thể tiết ra hóa chất gây viêm. Trong trường hợp nghiêm trọng, dị ứng đậu nành có thể được điều trị bằng thuốc tiêm adrenaline, theo Healthline.
Đàn ông đừng sợ đậu nành
Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc ăn đậu nành ở mức vừa phải không làm tăng nguy cơ ung thư hay “nữ hóa” đàn ông, mà còn góp phần bảo vệ tim mạch.
Đậu nành phổ biến trong nhiều món ăn châu Á và ngày càng phổ biến ở các nước phương Tây khi nhiều người hướng tới chế độ ăn thiên về thực vật. Nó cung cấp nhiều lợi ích sức khỏe tiềm năng và thường rẻ hơn thịt. Tuy nhiên, có thể chúng ta từng nghe lời đồn rằng đậu nành liên quan đến nguy cơ ung thư hoặc nó có thể có tác dụng “nữ hóa” đối với nam giới. Các nghiên cứu thực sự nói gì về lời đồn này?
Trên thực tế, theo The Conversation, đa số nghiên cứu chứng minh ăn một lượng đậu nành vừa phải chẳng những không gây ra vấn đề mà thậm chí có thể mang lại lợi ích. Nhìn chung, bạn có thể dùng một lượng đậu nành vừa phải trong chế độ ăn uống hàng ngày.
Đa số nghiên cứu chứng minh ăn một lượng đậu nành vừa phải chẳng những không gây ra vấn đề mà thậm chí có thể mang lại lợi ích. (Ảnh: dogtime.com)
Hầu như không có nguy cơ “nữ hóa” nam giới
Đậu nành rất giàu protein chất lượng cao và chứa vitamin B, chất xơ, khoáng chất cũng như các chất thuộc nhóm isoflavone như daidzein, genistein và glycitein.
Daidzein có cấu trúc tương tự estrogen tự nhiên và đôi khi người ta gọi nó là “estrogen thực vật”. Nhóm isoflavone trong đậu nành có thể liên kết với các thụ thể estrogen trong cơ thể.
Vài nghiên cứu đã chỉ ra vài tác động đáng lo ngại, song các tác động ấy có xu hướng liên quan tới những người ăn quá nhiều đậu nành. Chẳng hạn, một người đàn ông mắc hội chứng nữ hóa tuyến vú (tuyến vú phì đại ở nam giới) do uống gần 3 lít sữa đậu nành mỗi ngày.
Một tổng quan lý thuyết về các nghiên cứu liên quan chỉ ra rằng các nghiên cứu nhấn mạnh nguy cơ này thường được thực hiện trên động vật, hoặc là những trường hợp cá biệt.
Tổng quan lý thuyết trên lưu ý rằng dù cần thêm nhiều dữ liệu từ các nước phương Tây, một lượng vừa phải đậu nành trong “các món ăn truyền thống từ đậu mang lại lợi ích sức khỏe khiêm tốn và rất ít nguy cơ biến chứng”.
Mối liên hệ giữa đậu nành và ung thư
Một nghiên cứu đối với 73.223 phụ nữ Trung Quốc trong hơn 7 năm đã phát hiện rằng phụ nữ ăn nhiều đậu nành trong thời kỳ thiếu niên và trưởng thành có nguy cơ ung thư vú thấp đáng kể. Nghiên cứu không chỉ ra bất kỳ mối liên hệ nào giữa việc ăn đậu nành với ung thư thời kỳ mãn kinh.
Vài thử nghiệm trên động vật và các nghiên cứu về tế bào cho thấy isoflavone hoặc protein từ đậu nành có thể kích thích sự phát triển của ung thư, song hiện tượng ấy không xảy ra trong các thử nghiệm với người.
Một nghiên cứu ở nam giới Nhật Bản cho thấy ăn nhiều súp miso (1-5 chén mỗi ngày), có thể làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lưu ý rằng một số nguyên liệu trong súp miso có thể gây tác động. Chẳng hạn, hàm lượng muối cao trong súp miso làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày.
Đậu nành chứa isoflavone, chất béo lành mạnh (như chất béo no không bão hòa), chất xơ, vitamin và khoáng chất, đồng thời cũng chứa ít chất béo bão hòa.
Thay thế thịt trong chế độ ăn uống bằng các sản phẩm từ đậu nành sẽ làm giảm lượng chất béo bão hòa bạn ăn, đồng thời tăng mức hấp thụ các chất dinh dưỡng quan trọng.
Thay thịt đỏ bằng protein thực vật – bao gồm các sản phẩm từ đậu nành – có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim. (Ảnh: AP)
Tác dụng của đậu nành đối với tim mạch
Một nghiên cứu với gần một triệu người trưởng thành Trung quốc không mắc bệnh tim mạch cho thấy những người ăn đậu nành trong 4 ngày trở lên mỗi tuần có nguy cơ t.ử v.ong vì đau tim thấp hơn nhiều so với những người không bao giờ ăn đậu nành.
Thay thịt đỏ bằng protein thực vật – bao gồm các sản phẩm từ đậu nành – có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim.
Cách chọn thực phẩm từ đậu nành
Nếu bạn muốn đưa đậu nành trong chế độ ăn uống, hãy chọn các loại thực phẩm từ đậu nành ở trạng thái tự nhiên như đồ uống đậu nành giàu canxi, bánh mì đậu nành, đậu phụ và đậu nành thay vì các sản phẩm được chế biến ở mức cao, chứa nhiều muối và chất béo bão hòa.
Nhìn chung, một lượng vừa phải đậu nành có thể được coi như một phần của chế độ ăn uống lành mạnh và thậm chí có thể giúp điều trị một số triệu chứng của thời kỳ mãn kinh.