Thịt cung cấp nhiều dưỡng chất cần thiết cho cơ thể nhưng ăn quá nhiều lại gây ra các vấn đề sức khỏe nguy hiểm.
Béo phì
Nguyên nhân dẫn đếnbéo phìchủ yếu là do chế độ ăn uống không hợp lý, chứa quá nhiều mỡ động vật, thịt, đường, bột… gây dư thừa năng lượng. Khi rơi vào tình trạng béo phì, người ta có xu hướng trở nên lười vận động. Lúc này, năng lượng thừa không được tiêu hao mà tích trữ dưới dạng mỡ nên càng béo hơn. Béo phì cũng dẫn tới hàng loạt các bệnh khác như xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, đau xương khớp.
Theo ý kiến của các chuyên gia, cách tốt nhất để bạn ăn thịt mà không gây tăng cân là tránh ăn thịt mỡ, nên sử dụng phần thịt nạc vì phần này chứa nhiều chất sắt, protein, vitamin và ít chất béo.
Ảnh minh họa
Bệnh gan
Gan có chức năng tổng hợp các chất cần thiết cho cơ thể và loại bỏ các chất độc hại ra bên ngoài. Tuy nhiên, chế độ ăn nhiều thịt và mỡ động vật sẽ làm tăng gánh nặng cho gan. Khi gan làm việc quá sức sẽ dẫn đến những tổn thương. Ăn nhiều thịt và mỡ sẽ gây ra tình trạng gan nhiễm mỡ, hóa xơ, hóa sẹo.
Bệnh tim mạch
Nghiên cứu của Trường Đại học Harvard cho thấy, huyết áp trung bình của người ăn chay giảm rõ rệt so với người ăn thịt. Ngoài ra, nồng độ cholesterol trong m.áu của người ăn thịt cũng cao gấp nhiều lần so với người ăn chay. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới chứng xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, nhồi m.áu cơ tim, đột quỵ… Ngày càng nhiều các chuyên gia đưa ra chế độ ăn hạn chế thịt hoặc thuyết phục người bệnh ngừng sử dụng thịt để bảo vệ sức khỏe.
Bệnh tiểu đường
Chế độ ăn nhiều thịt, đặc biệt là loại thịt có chứa nhiều mỡ làm tăng axit béo và triglycerid. Đây là nguyên nhân dẫn đến bệnh tiểu đường tuýp 2. Các axit béo dư thừa trong m.áu và triglycerid sẽ ức chế hoạt động của insulin. Điều này dẫn đến việc kết quả xét nghiệm m.áu cho thấy lượng insulin vẫn bình thường hoặc chỉ hơi tăng nhưng đường huyết của bệnh nhân lại rất cao. Nếu thay đổi chế độ ăn uống bằng cách giảm lượng thịt tiêu thụ hoặc chuyển sang chế độ ăn chay thì lượng đường trong m.áu sẽ giảm hẳn và nồng độ axit béo cũng trở về mức an toàn.
Bệnh thận
Nghiên cứu chỉ ra rằng để bài tiết các hợp chất nitơ độc hại do tiêu thụ nhiều thịt thì thì thận phải làm việc gấp 3 lần so với thận của người ăn chay. Urê và axit uric là hai chất thải độc hại đối với cơ thể của chế độ ăn nhiều thịt. Khi còn trẻ, thận khỏe mạnh thì việc loại bỏ các chất này diễn ra bình thường. Tuy nhiên, khi đã cao t.uổi, chức năng thận suy yếu thì việc đào thải chất độc lại trở thành gánh nặng cho thận. Kết quả là thận không thể thải độc hiệu quả và gây ra nhiều bệnh tật.
Bệnh gút
Khi thận hoạt động không tốt, không có khả năng lọc thải hết các chất chứa nitơ độc hại thìcreatinin và axit uric trong m.áu sẽ tăng cao. Khi nồng độ axit uric vượt quá ngưỡng, chúng sẽlắng đọng lại trong các khớp nhỏ như khớp ngón tay, ngón chânvà gây rabệnh gút. Tại các khớp, axit uric đọng lại kết tinh thành tinh thểvà tạo raphản ứng viêm,gây đau nhức cho bệnh nhân.
Ăn thịt bao nhiêu là đủ?
Để đảm bảo dinh dưỡng, theo các nhà nghiên cứu, một người bình thường không nên ăn quá300 – 500g thịt đỏ (bò, lợn, bê…) mỗi tuần.Nênăn nhiều cá và thịt gia cầm thay cho thịt đỏ, mỗi tuần có thể ăn 2 lần, mỗi lần ăn từ 100 – 150g. Nên chế biến bằng cách luộc, hầm; tránh sử dụng nước sốt quá béo cũng như nướng thịt bằng than hoặc lò nướng.
Những thực phẩm người bị ‘bệnh nhà giầu’ tuyệt đối không được ăn
Gút được xem là bệnh của giới nhà giàu nhưng hiện nay ngay kể cả người nghèo cũng mắc bệnh này, thậm chí bệnh xảy ra cả ở nữ giới.
Thông tin từ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM cho biết có khoảng 0,14% người Việt Nam đang bị gút, trong đó khoảng 8% bệnh nhân điều trị nội trú ở bệnh viện. Tại Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM, hơn 30% bệnh nhân đến khám các vấn đề xương khớp có liên quan đến gút
Thực tế, nhiều người nghĩ gút là bệnh của riêng nam giới do thói quen uống bia rượu hoặc ăn uống dư thừa chất đạm. Tuy nhiên, bệnh cũng xuất hiện ở phụ nữ t.uổi tiền mãn kinh vì những rối loạn hormone trong giai đoạn này.
25% bệnh nhân gút ở Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM là nữ. Nhiều phụ nữ có dấu hiệu gút lại nhầm tưởng bị đau khớp nên đã tự ý điều trị sai, dẫn đến bệnh nặng hơn.
BS CKI Nguyễn Trần Như Thủy – Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, cho biết bệnh gút là do nồng độ axit uric trong m.áu tăng cao. Bình thường chỉ số axit uric của người khỏe mạnh thường dưới 7mg/dl ở nam, và dưới 6 mg/dl ở nữ.
Khi nồng độ axit uric trong m.áu bị rối loạn, cơ thể bị mất cân bằng giữa nguồn tạo và nguồn thải axit uric, nguồn tạo axit uric nhiều hơn nguồn thải sẽ gây tình trạng tăng axit uric m.áu.
Theo bác sĩ Thủy, việc tăng nồng độ axit uric này có thể không gây triệu chứng gì nhưng cũng có thể lắng đọng tại khớp và những mô mềm quanh khớp gây ra bệnh gút hoặc cũng có thể lắng đọng tại các cơ quan gây ra một số bệnh khác nhau như sỏi thận, sỏi niệu quản; mặt khác tăng axit uric cũng là một yếu tố độc lập làm tăng nguy cơ các bệnh lý tim mạch như tăng huyết áp.
Rất nhiều các nghiên cứu đã cho thấy axit uric là yếu tố nguy cơ độc lập cho bệnh tim mạch sau khi đã hiệu chỉnh. Do đó cho đến hiện nay, axit uric vẫn đóng vai trò trong cơ chế bệnh sinh của bệnh tim mạch, bệnh tăng huyết áp và bệnh thận.
Giả thuyết trên còn được ủng hộ bởi nghiên cứu cho thấy t.rẻ e.m có tăng axít uric sẽ có nguy cơ bệnh tăng huyết áp khi trưởng thành và khởi phát tăng huyết áp khá sớm.
Ảnh bệnh nhân biến chứng do gút.
Để phát hiện và điều trị, người bệnh cần đi khám và làm xét nghiệm để được đ.ánh giá các yếu tố nguy cơ bệnh lý, bác sĩ sẽ xem có cần dùng thuốc hay không.
Những đối tượng sau đây thường sẽ được chỉ định làm xét nghiệm axit uric m.áu: Người bị đau khớp hoặc sưng khớp nghi ngờ bị gút; người đang hoặc sắp trải qua liệu trình hóa xạ trị; người bị sỏi thận tái phát nhiều lần; người từng có t.iền sử mắc bệnh gút; người béo phì; người bệnh đái tháo đường; người có chế độ ăn có nhiều đạm như hải sản; người có thói quen uống nhiều rượu bia,…
Với người bị gút, bác sĩ Thủy khuyến cáo bên cạnh thuốc được chỉ định bởi bác sĩ chuyên ngành, một chế độ ăn cân bằng thích hợp là rất quan trọng để hỗ trợ điều trị và phòng ngừa.
Nguyên tắc chính trong chế độ ăn của người bị tăng axit uric m.áu là cần phải giảm nạp các thực phẩm chứa nhiều nhân purin. Purin là hợp chất tự nhiên trong một số loại thực phẩm, purin trong quá trình p.hân h.ủy trong cơ thể sẽ tạo ra axit uric, việc nạp vào quá nhiều thực phẩm chứa purin khiến cho cơ thể tạo ra quá nhiều axit uric gây tăng axit uric m.áu.
Khi ăn, người bệnh cần tránh các thực phẩm như thịt gà lôi, chim cút, thịt thú rừng, nội tạng động vật. Các sản phẩm thịt lên men, các chế phẩm từ các loại thịt như xúc xích, thịt xông khói,…
Các loại cá như cá hồi, cá cơm, cá mòi, cá thu, cá trích, cá hồi, cá tuyết và các chế phẩm từ trứng cá như trứng cá muối, trứng cá hồi.
Các loại hải sản tôm hùm, tôm càng, cua, ghẹ, ốc, đồ uống có cồn các loại: rượu bia,…
Các thức uống có chất kích thích như nước tăng lực, nước ép trái cây đóng hộp hoặc chế biến sẵn.
Ngoài ra, các loại thực phẩm từ gia cầm: thịt vịt, thịt gà, ngỗng, thịt bò, thịt cừu, thịt lợn ăn được nhưng cũng nên ăn trong giới hạn.
Ngũ cốc nguyên hạt đậu xanh, đậu phộng, đậu tương, đậu hà lan, đậu phụ, bột đậu nành, hạt điều có thể dùng vừa đủ.
Người bệnh hạn chế dùng các loại nước ngọt và thức uống có gas.
Người bệnh nên bổ sung nhiều trái cây như các loại trái cây và rau xanh thường chứa rất ít hoặc không chứa nhân purin, ngoại trừ các loại trong nhóm 2, gợi ý như chuối, ổi, táo, trái cherry, nho; cần tây, dưa chuột, bí đao, bông cải xanh, cà chua, khoai tây.
Ngũ cốc, yến mạch, bắp và hạt các loại như hạt óc chó, hạnh nhân, hạt điều. Sữa ít béo hoặc tách béo, các sản phẩm từ sữa, dầu oliu, dấm táo.
Các thức uống như: nước lọc, nước chanh, trà xanh, nước ép rau củ như rau thơm, dưa chuột, cà rốt, cần tây.
Sử dụng thực phẩm không lành mạnh có thể làm tăng nồng độ axit uric trong cơ thể, gây nên những hậu quả không mong muốn hoặc gây khó khăn trong điều trị khiến bệnh chuyển nặng và để lại nhiều di chứng nặng nề.