Người đàn ông sống khỏe sau 35 năm nhiễm HIV

Carl Fox phát hiện nhiễm HIV vào năm 1985 và được tiên lượng chỉ có thể sống thêm 2 năm. Hơn 3 thập kỷ trôi qua, ông vẫn khỏe mạnh, đóng góp cho dự án đẩy lùi căn bệnh.

Carl Fox (62 t.uổi, ở Bắc Kentucky, Mỹ) nhớ lại cuốn sổ cũ. Đó là tài liệu mà ông từng rất trân quý, ghi tên những người bạn đã mất vì nhiễm HIV. Ông cũng là bệnh nhân nhiễm virus này.

“Vào những năm 80, điều đó thật khủng khiếp. Giai đoạn cao điểm, tôi dự 3 đám tang trong một tuần và không thể quên được điều đó. Tôi ghi chép lại danh sách những người quá cố vì muốn ghi nhớ tên của họ. Tất cả đều là bạn bè của tôi”, người đàn ông Mỹ chia sẻ.

Carl Fox từng nghĩ cuốn sổ này nhiều nhất có 40, 50 cái tên. Nhưng đến năm 1994, danh sách lên tới 204 người. Ông buộc phải dừng lại. ‘Tôi biết nếu tiếp tục, nó sẽ hại c.hết tôi từ bên trong. Vì vậy, tôi quyết định xé đi nó. Nhưng xé bỏ nó không thể khiến tôi quên đi những cái tên”, ông nói với kênh WCPO 9 của đài ABC .

Năm 1985, Fox phát hiện mình dương tính với HIV. Thời điểm đó, bác sĩ chẩn đoán ông chỉ còn khoảng 2 năm để sống. Họ khuyên Fox nên chuẩn bị lời từ biệt cuộc sống, làm nốt những việc còn dang dở. Ban đầu, ông rất sợ hãi và nói điều đó cho cha mẹ. Nhưng mỗi ngày trôi qua, sức khỏe của Fox không có gì nghiêm trọng. Sáu tháng sau, ông quyết định mình sẽ sống bằng bất cứ giá nào.

35 năm đã trôi qua. Fox chứng kiến sự ra đi của nhiều bạn bè, những người nhiễm HIV/AIDS. Giờ đây, người đàn ông này là một phần của nghiên cứu do liên bang tài trợ nhằm tìm ra phương pháp điều trị bệnh nhân nhiễm HIV.

Carl Fox trong bức ảnh chụp năm 2019. Ảnh: Carl Fox.

“Tử thần có lẽ đã bỏ quên tôi”

Mọi chuyện bắt đầu vào năm Fox 20 t.uổi. Những năm 1980, đầu 1990, HIV là án tử với bất kỳ ai nhiễm nó. Dường như không điều gì có thể ngăn được virus tấn công hệ miễn dịch của bệnh nhân và tiến triển thành AIDS.

Theo số liệu từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC), từ năm 1981 đến 1987, quốc gia này có 50.280 người được chẩn đoán mắc AIDS. 47.993 trường hợp trong số đó t.ử v.ong, chiếm 95,5%. Dữ liệu của CDC cũng xác định số người được chẩn đoán mắc AIDS đạt đỉnh điểm vào những năm 1990, sau đó giảm dần. Tuy nhiên, từ năm 1988 đến 1995, căn bệnh này vẫn khiến 340.260 trường hợp t.ử v.ong.

Chân dung Greg Landrum chụp năm 1988. Ảnh: Carl Fox.

Rất nhiều người trong số đó là bạn của Carl Fox. Cái tên đầu tiên trong cuốn sổ ghi chép của Fox là Steven. Trước khi c.hết, bệnh nhân mong được gặp mẹ lần cuối. Nhưng Steven nói với Fox điều đó là không thể. Cả Steven và Fox đều là người đồng tính. Trước khi nhắm mắt, Steven không được mẹ chấp nhận điều này.

Cái c.hết của bạn khiến Fox buồn bã. Sau đó, ông phải chứng kiến nhiều sự ra đi khác, trong đó có bạn đời của mình, Greg Landrum. Greg qua đời vào năm 1992 khi mới 44 t.uổi. Greg từ chối xét nghiệm HIV và đã nhiễm virus trong nhiều tháng trước khi sốt hơn 40,5 độ C. Ông một mực khẳng định mình chỉ n.hiễm t.rùng xoang thông thường.

Fox vội vàng đưa Greg đến bệnh viện. Tại đây, các bác sĩ chẩn đoán ông viêm phổi và mắc AIDS giai đoạn cuối. Greg phải nhập viện trong 60 ngày, thân thể suy kiệt, không thể tự ăn, mất trí nhớ. Hai năm sau, bệnh nhân qua đời.

Chứng kiến sự ra đi của người bạn, người yêu, Carl Fox tuyệt vọng. “Nhiễm HIV, tôi tưởng rằng mình nhận án tử cho đến 35 năm sau. Tử thần có lẽ đã bỏ quên tôi. Tôi sẽ luôn là ‘nữ hoàng’ cuối cùng trong căn phòng”, Fox vừa tâm sự vừa bông đùa.

Trước sức khỏe của em trai sau khi nhiễm HIV, người anh ruột Paul Fox thú nhận ông “rất sốc”. 20 năm trước, bệnh của Fox tiến triển thành AIDS. Ông Paul tiết lộ Fox thích món chiên rán, giòn rụm, ngập trong dầu. Nhưng bệnh nhân này không hề gặp vấn đề liên quan cholesterol. Những người xung quanh đều rất tò mò và ngạc nhiên. Carl Fox trở thành ẩn số với y học và thế giới.

Hy vọng 30 năm

Tuy nhiên, vài năm sau khi phát hiện bệnh chuyển sang giai đoạn cuối, hệ miễn dịch của Fox bắt đầu có những dấu hiệu suy giảm. Fox thường xuyên xét nghiệm m.áu. Nó báo động tế bào miễn dịch T giảm dần. Thông thường, ở người khỏe mạnh, số lượng tế bào T là 500-1.600 trên mỗi milimet khối m.áu. Trong cơ thể của Fox, con số này chỉ rơi vào khoảng 250 và có xu hướng giảm.

Sau đó, bạn đời hiện tại của Fox – Terry Bond – khuyên ông tìm đến các loại thuốc được kê cho bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS. Hành động này đã cứu mạng Fox. Năm 2005, Fox nhiễm virus viêm gan C. Khi đang xem trận đấu của Cincinnati Bengals trên tivi, ông cảm thấy buồn nôn. Sau đó, Fox gục xuống trong nhà tắm.

Khi tỉnh dậy, ông thấy mình ở trong bệnh viện, tầm nhìn mờ đi bởi vết m.áu trong mắt. Hậu quả của cú ngã là Fox bị liệt, không thể nói chuyện. Bác sĩ cho biết ông bị xuất huyết não và suýt c.hết. Fox phải tập vật lý trị liệu để có thể đi lại bình thường. Sau khi thoát c.hết, ông tham gia vào thử nghiệm lâm sàng phương pháp chữa khỏi bệnh viêm gan C. Giây phút cận kề cái c.hết cũng khiến ông không ngại ngần tham gia vào dự án thử nghiệm của các chuyên gia về HIV/AIDS.

Terry Bond (trái) và Carl Fox chụp cùng nhau năm 2004, 2020. Ảnh: Carl Fox.

Giáo sư, tiến sĩ Carl Fichtenbaum, Đại học Cincinnati College of Medicine, Mỹ, là chuyên gia nghiên cứu ca bệnh đặc biệt này. Ông cũng là nhà khoa học tiên phong tìm cách lý giải bí ẩn “giấu” trong tế bào bạch cầu của bệnh nhân nhiễm HIV.

“Nghiên cứu chúng tôi đang thực hiện dựa trên việc lấy các tế bào bạch cầu chứa thụ thể của bệnh nhân HIV, đưa nó vào phòng thí nghiệm. Sau đó, thụ thể được loại bỏ thông qua kỹ thuật di truyền và truyền ngược lại vào tế bào người. Chúng tôi hy vọng nếu điều này làm thường xuyên, cơ thể bệnh nhân nhiễm HIV sẽ ‘thay m.áu’ đủ các tế bào, giúp kiểm soát virus, ngay cả khi không cần dùng thuốc”, tiến sĩ Fichtenbaum tiết lộ về dự án.

Carl Fox là một trong 30 bệnh nhân trong nghiên cứu trên. Dự án do các nhà khoa học tại Đại học Case Western Reserve ở Cleveland và Đại học California-San Francisco hợp tác. Fox cũng là một trong số 600 bệnh nhân tại UC Health đã sống chung với HIV nhiều thập kỷ.

“Chúng tôi rất may mắn khi có những người như Carl Fox. Họ sẵn sàng giúp đỡ và đóng góp cho nghiên cứu. Một lời cảm ơn dành cho họ là không đủ”, tiến sĩ Fichtenbaum chia sẻ thêm.

Để tìm hiểu nguyên nhân người mắc HIV/AIDS phát triển bệnh chậm, các nhà khoa học cần đến m.áu của họ. Từ tháng 1/2020, Fox thường xuyên đến truyền m.áu, cung cấp cho dự án.

16h30, ông ngồi yên chờ chiếc kim hút m.áu và truyền qua chiếc máy phân tích. Tại đây, máy sẽ tách bỏ tế bào bạch cầu cần thiết, phục vụ nghiên cứu. Dòng m.áu còn lại sau khi tách bỏ sẽ được truyền ngược trở lại cơ thể Fox.

Vài tuần sau, ông quay trở lại viện để sinh thiết hạch bạch huyết và làm một số xét nghiệm cần thiết. Nghiên cứu không yêu cầu sinh thiết, nhưng Fox tình nguyện thực hiện để cung cấp cho các chuyên gia thông tin bổ sung về cách thức HIV ẩn náu trong các mô tế bào.

Giáo sư, tiến sĩ Carl Fichtenbaum, Đại học Cincinnati College of Medicine, Mỹ, là người phụ trách nghiên cứu trường hợp bệnh nhân Carl Fox. Ảnh: WCPO.

Trước đó, theo kế hoạch, Fox sẽ đến Trung tâm Y tế Bệnh viện Nhi Cincinati vào tháng 4 để truyền thuốc hóa trị trong 10 giờ. Tuy nhiên, dịch Covid-19 ập đến. Ngày 7/12/2020, bệnh nhân mới tiêm hóa trị và lấy tế bào m.áu vào 3 ngày sau đó.

Trong số 30 tình nguyện viên tham gia dự án, 2/3 sẽ được chỉnh sửa gene của tế bào m.áu. Những người khác đóng vai trò là nhóm kiểm soát. Họ sẽ được truyền lại các tế bào không thay đổi ngược vào cơ thể. Theo Fox, đây là khía cạnh đáng sợ của nghiên cứu.

“Tôi không biết, bác sĩ cũng không. Tôi có thể được nhận tế bào đã bóc tách hoặc không. Thuốc hóa trị cũng vậy. Thành thật mà nói, điều đáng sợ nhất là trải qua hàng tiếng đồng hồ chờ đợi nhưng phải nhận về kết quả không thành công. Tôi đã nuôi hy vọng trong 30 năm rằng mình sẽ khỏi bệnh”, Fox chia sẻ.

Dù không rõ kết quả sẽ ra sao, Carl Fox vẫn không từ bỏ. “Tôi luôn tự hỏi tại sao mình luôn là người sống sót. Nghe không có vẻ khiêm tốn nhưng nếu có chuyện gì tồi tệ xảy ra, thì đó cũng là mục đích của tôi khi tham gia nghiên cứu này”, bệnh nhân lạc quan.

Điều trị dự phòng để loại trừ nguy cơ nhiễm HIV từ mẹ sang con

Nếu không được điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, cứ 100 bà mẹ nhiễm HIV mang thai sẽ có 35 trẻ sinh ra lây truyền HIV từ mẹ. Nhưng nếu được điều trị dự phòng chỉ có khoảng 5 trẻ sinh ra bị lây truyền căn bệnh này từ mẹ.

Bé V.A (2 t.uổi, Lào Cai) đến bệnh viện nhi trung ương khám trong tình trạng sức khỏe vô cùng nguy hiểm đến tính mạng, sau khi xét nghiệm bé V được phát hiện nhiễm HIV. Được biết mẹ của bé cũng đã qua đời sau khi sinh bé được vài tháng. Các bác sỹ cho rằng bé V bị lây nhiễm HIV từ mẹ. Do gia đình bé ở vùng sâu vùng xa lại không có điều kiện đến các bệnh viện có đủ điều kiện khám chữa bệnh và xét nghiệm nên bé V bị nhiễm HIV gần 2 năm mà không ai biết.

Không chỉ có bé V.A, bé N. ở Hà Giang cũng bị nhiễm HIV do mẹ truyền sang. Khi được phát hiện nhiễm HIV, bé N. đã được 6 tháng t.uổi và cũng trong tình trạng viêm phổi nặng. Thậm chí, khi được thông báo bị nhiễm HIV, mẹ bé N. vẫn dửng dưng như không vì nghĩ rằng căn bệnh này cũng giống như những bệnh đơn thuần khác, cứ uống thuốc là khỏi.

Câu chuyện buồn đó chỉ là một trong số khá nhiều câu chuyện trẻ lây nhiễm HIV từ mẹ đang ẩn quanh đâu đó trong xã hội bởi những trường hợp con lây truyền HIV từ người mẹ không còn là chuyện hiếm gặp.

Có một sự thật rằng, nhiều phụ nữ mang thai không đi xét nghiệm trước thai kỳ. Phòng, chống HIV là một công tác đòi hỏi thực tế, thực địa tại các vùng miền. Nhờ sự phát triển của công tác điều trị, phòng, chống mà tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con đã giảm đáng kể.

Ngay cả khi bố mẹ đều nhiễm HIV vẫn có thể sinh ra những đứa con hoàn toàn khỏe mạnh và không bị nhiễm HIV nếu mẹ sớm được dùng thuốc kháng vi rút (ARV) và tuân thủ việc nuôi con theo hướng dẫn của cán bộ y tế. Tuy nhiên ở nhiều vùng miền, tỷ lệ phụ nữ mang thai đi xét nghiệm trước và sau thai kỳ chỉ chiếm số lượng ít.

Mục tiêu của toàn xã hội là đến năm 2020 sẽ giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con xuống dưới 2%. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu này, cần phải có sự tham gia tích cực hơn nữa của các cơ sở y tế, đặc biệt là cơ sở y tế tại các phường/xã trong công tác dự phòng lây truyền mẹ con như tăng cường độ bao phủ xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai, tăng cường xét nghiệm trong thời kỳ mang thai,…

Ngay cả khi bố mẹ đều nhiễm HIV vẫn có thể sinh ra những đứa con hoàn toàn khỏe mạnh và không bị nhiễm HIV nếu mẹ sớm được dùng thuốc kháng vi rút (ARV) và tuân thủ việc nuôi con theo hướng dẫn của cán bộ y tế

Bên cạnh đó, khi việc thực hiện chuyển tiếp giữa hai hệ thống chăm sóc sức khỏe sinh sản và phòng chống HIV/AIDS, cần theo dõi chuyển tiếp phụ nữ mang thai HIV dương tính sang cơ sở chăm sóc điều trị để được theo dõi điều trị ARV ngay; chuyển tiếp mẹ và trẻ sau sinh sang cơ sở HIV/AIDS để được theo dõi điều trị cho đến khi trẻ khẳng định tình trạng nhiễm HIV.

Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ mang thai, vợ của những người nhiễm HIV trong độ t.uổi sinh đẻ, phụ nữ sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người về lợi ích của xét nghiệm HIV sớm và điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con sớm. Các đơn vị y tế và tổ chức xã hội cần tăng cường cung cấp dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con (xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV cho phụ nữ mang thai, cung cấp thuốc ARV cho phụ nữ nhiễm HIV bao gồm phụ nữ nhiễm HIV mang thai), đẩy mạnh các can thiệp, chất lượng dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.

Nếu phụ nữ mang thai phát hiện nhiễm HIV ở ba tháng đầu của thai kỳ được uống thuốc sớm và tuân thủ điều trị theo nguyên tắc 5Đ (uống thuốc đều, đúng giờ, điều nhiều, đúng chỉ định, đúng cách), xét nghiệm m.áu từ 3 đến 6 tháng/lần, tải lượng virus dưới 200 bản sao, thì nguy cơ lây sang con sẽ thấp. Việc xét nghiệm HIV ngay khi biết mình mang thai trong quý đầu của thai kỳ hoặc ngay lần khám thai đầu tiên điều trị thuốc thì tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con sẽ giảm đáng kể, với tỷ lệ chỉ còn 2 – 6%.

Việt Nam phát hiện trường hợp trẻ có HIV từ năm 1994 và thực hiện mở rộng chăm sóc điều trị HIV/AIDS cho trẻ từ năm 2004. Trong công tác chăm sóc, điều trị HIV/AIDS cho trẻ tại cộng đồng và gia đình, Việt Nam luôn được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đ.ánh giá cao. Nhưng đến nay, vẫn còn những khó khăn cần khắc phục để bảo đảm cho trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS có cuộc sống bình thường như bao t.rẻ e.m khác.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *