Viêm họng cấp hay gặp vào mùa lạnh, nếu không được điều trị sớm có thể biến chứng nguy hiểm.
Vì vậy, cần phát hiện sớm và điều trị đúng để tránh biến chứng.
Bệnh viêm họng là tình trạng mà cổ họng và hầu bị viêm do vi khuẩn hoặc virus gây ra, khiến cho cổ họng đau rát, khó chịu. Viêm họng dạng cấp tính có thời gian bộc phát nhanh chỉ trong khoảng thời gian ngắn trong năm, đặc biệt là thời điểm chuyển mùa khi thời tiết thay đổi thất thường hoặc lạnh giá.
Viêm họng cấp là bệnh rất phổ biến và hầu như ai cũng đã từng mắc phải, thậm chí có người bệnh đã trở thành mạn tính, gây khó khăn cho quá trình điều trị.
Bệnh được thể hiện dưới 3 cấp độ: viêm họng đỏ, viêm họng có giả mạc, viêm họng loét. Tùy vào từng dạng mà bệnh sẽ có những biểu hiện và triệu chứng khác nhau. Người bệnh cần chú ý quan sát theo dõi các triệu chứng để từ đó kịp thời phát hiện và điều trị bệnh hiệu quả.
Viêm họng dạng cấp tính có thời gian bộc phát nhanh
Nguyên nhân gây bệnh viêm họng cấp
Viêm họng cấp xuất hiện ở người viêm amidan, viêm họng VA… do vi khuẩn liên cầu, phế cầu hoặc một số loại vi khuẩn khác khu trú sẵn trong họng. Virus cảm cúm, sởi cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến bệnh viêm họng cấp. Bệnh thường xuất hiện sau khi tắm ở nơi có gió lùa, tắm không lau khô người mà mặc quần áo ngay.
Viêm họng còn do nguyên nhân từ vi khuẩn trong đó hay gặp liên cầu khuẩn (streptococcus). Liên cầu nhóm A là nhóm vi khuẩn thường gặp nhất, chúng thường gây viêm amidan mủ, sốt cao, hạch sưng to. Có thể có các biến chứng như: thấp tim, gây ra các bệnh về van tim do thấp về sau này.
Viêm họng còn do vi khuẩn bạch hầu, là nhóm vi khuẩn phổ biến nhất trong quá khứ, gây viêm họng rất nguy hiểm vì có thể tạo ra các giả mạc trắng làm tắc nghẽn đường thở gây suy hô hấp của trẻ. Trong một thời gian dài bệnh bạch hầu đã bị đẩy lùi nhưng gần đây có xu hướng tăng lên khi trẻ không được tiêm phòng vaccine đầy đủ.
Ngoài ra, các nhóm vi khuẩn ít gặp khác Chlammydia, lậu cầu, …cũng gây ra viêm họng cấp. Viêm họng do các tác nhân hóa học (hút thuốc, rượu bia,…), ô nhiễm không khí, khói bụi, dị ứng, trào ngược dạ dày thực quản.
Viêm họng còn do nguyên nhân từ vi khuẩn trong đó hay gặp liên cầu khuẩn (streptococcus
Biểu hiện viêm họng cấp và hệ lụy
Bệnh viêm họng cấp thường xuất hiện bất ngờ với biểu hiện sốt cao từ 39 đến 40 độ C, rát buốt, đau họng khi nuốt. Đầu tiên là cảm giác khô nóng họng sau đó là hiện tượng đau rát tăng dần khi nuốt, nói hoặc ho.
Bệnh nhân có thể bị tắc mũi, chảy nước mũi, khàn giọng hoặc ho khan, amidan viêm to, hạch cổ sưng có khi có bựa trắng như nước cháo phủ ngoài bề mặt.
Nếu để kéo dài từ 7 đến 10 ngày, bệnh viêm họng cấp có thể gây ra các biến chứng như viêm tai, viêm amidan, viêm xoang, viêm thanh quản, viêm phế quản…
Nhiều trường hợp bị viêm họng là do vi khuẩn liên cầu nhóm A, do đó có thể gây ra viêm cầu thận thấp, thấp tim. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh có thể chuyển sang mạn tính và tái phát nhiều lần.
Để phòng ngừa viêm họng cấp
Để phòng viêm họng cấp cần thực hiện các nguyên tắc sau:
– Ở nhiệt độ lạnh rất dễ mắc viêm họng cấp vì vậy, hàng ngày cần ăn thêm nhiều rau xanh, trái cây. Nên tắm bằng nước ấm, trong phòng kín gió, khi tắm xong phải lau khô người trước khi mặc quần áo.
– Cần vệ sinh họng, miệng như đ.ánh răng sau khi ăn, trước và sau khi ngủ dậy. Nên súc họng bằng nước muối ấm hàng ngày.
– Tránh tiếp xúc quá gần người đang bị các bệnh viêm đường hô hấp trên, khi tiếp xúc cần mang khẩu trang y tế để dự phòng lây nhiễm.
– Tránh dùng chung đồ dùng cá nhân với người bệnh.
– Bỏ t.huốc l.á và rượu bia, tránh ăn thức ăn muối, sống, lên men.
– Nâng cao mức sống để tăng sức đề kháng cơ thể, tạo môi trường trong sạch.
– Phòng hộ lao động tốt, chống bụi, chống nóng, vệ sinh răng miệng tốt.
– Điều trị tích cực các bệnh mũi xoang, viêm họng, viêm amidan, viêm VA, bệnh mạn tính.
– Đối với trẻ nhỏ cần giữ ấm vùng hầu họng khi thời tiết trở lạnh, không để trẻ dầm mưa, chơi ngoài nắng, rửa tay thường xuyên với xà phòng, vệ sinh ăn uống, tạo môi trường sống sạch sẽ và thoáng mát cho trẻ.
– Tiêm phòng cảm cúm cho trẻ để tạo miễn dịch chủ động bảo vệ khỏi sự tấn công của virus, vi khuẩn gây bệnh.
Khi bị viêm họng, cần đến ngay cơ sở y tế hoặc các phòng khám chuyên khoa tai mũi họng để kịp thời điều trị ngay từ những ngày đầu, không nên để bệnh diễn tiến vài ba ngày mới đi khám. Và nhất là không nên tự ý mua thuốc điều trị hay đến thầy lang, để tránh những biến chứng nguy hiểm hơn.
Tại sao phải thận trọng khi dùng thuốc giảm đau trị viêm khớp?
Viêm khớp là một trong những bệnh lý thường gặp ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Thuốc giảm đau, đặc biệt là nhóm thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs), thường được sử dụng để quản lý đau và viêm trong điều trị viêm khớp. Tuy nhiên, việc sử dụng cần phải hết sức thận trọng do những rủi ro và tác dụng phụ.
1. Mối nguy khi dùng các thuốc giảm đau trị viêm khớp
Viêm khớp là một bệnh rất phổ biến gây ảnh hưởng đến khớp và xương. Khớp của người bệnh sẽ bị viêm, sưng, đau nhức và khó chịu. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm. Các thuốc NSAIDs làm giảm viêm và giảm đau bằng cách ức chế hoạt động của các enzyme COX, từ đó giảm sản xuất các chất gây viêm.
Mặc dù hiệu quả, nhưng thuốc cũng ảnh hưởng đến các quá trình sinh học khác trong cơ thể, dẫn đến nguy cơ tác dụng phụ.
Viêm khớp là một bệnh rất phổ biến gây ảnh hưởng đến khớp và xương.
1.1. Ảnh hưởng đến dạ dày
Thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) có thể ảnh hưởng xấu đến dạ dày chủ yếu do cơ chế hoạt động của chúng trong việc ức chế các enzyme cyclooxygenase (COX), đặc biệt là COX-1 và COX-2, có vai trò quan trọng trong việc sản xuất prostaglandins. Bao gồm:
– Ức chế enzyme COX-1: Enzyme COX-1 chịu trách nhiệm sản xuất prostaglandins, những chất bảo vệ niêm mạc dạ dày bằng cách duy trì lớp nhầy bảo vệ và kích thích tiết bicarbonate. Khi NSAIDs ức chế COX-1, lượng prostaglandins giảm đi, dẫn đến giảm lớp bảo vệ của niêm mạc dạ dày. Điều này làm tăng nguy cơ tổn thương niêm mạc dạ dày, gây viêm, loét và thậm chí là c.hảy m.áu.
– Tăng tiết acid dạ dày: Việc giảm prostaglandins cũng có thể kích thích tăng tiết acid trong dạ dày. Acid dạ dày dư thừa mà không có lớp nhầy bảo vệ đầy đủ có thể gây tổn thương cho niêm mạc dạ dày.
– Giảm lưu lượng m.áu đến dạ dày: Prostaglandins còn giúp duy trì lưu lượng m.áu tới niêm mạc dạ dày. Khi NSAIDs ức chế sản xuất prostaglandins, lưu lượng m.áu giảm, làm giảm khả năng phục hồi và bảo vệ niêm mạc dạ dày khỏi tổn thương.
-Tác động trực tiếp đến niêm mạc dạ dày: NSAIDs còn có thể gây kích thích trực tiếp lên niêm mạc dạ dày, gây viêm và tổn thương ngay cả khi không có sự tăng tiết acid.
Chính vì những lý do này, việc sử dụng NSAIDs, đặc biệt là trong thời gian dài hoặc với liều cao, cần được cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt đối với những bệnh nhân có t.iền sử về bệnh lý dạ dày hoặc những người có nguy cơ cao phát triển các vấn đề dạ dày.
Sử dụng thuốc giảm đau NSAIDs trị viêm khớp cần tuân thủ chỉ định của bác sĩ.
1.2. Tác động đến tim mạch
Các nghiên cứu chỉ ra rằng NSAIDs có thể tăng nguy cơ các vấn đề về tim mạch, bao gồm đau tim và đột quỵ, đặc biệt khi sử dụng trong thời gian dài.
NSAIDs ảnh hưởng xấu tới hệ tim mạch chủ yếu do hai cơ chế chính liên quan đến việc ức chế enzyme cyclooxygenase (COX), cụ thể là COX-2:
– Tăng huyết áp và rối loạn cân bằng nước và muối: NSAIDs có thể làm giảm lượng prostaglandins, dẫn đến co hẹp mạch m.áu và giảm lượng nước và muối được bài tiết qua thận. Điều này có thể gây tăng huyết áp và gánh nặng cho tim, đặc biệt trong trường hợp bệnh nhân đã có vấn đề về huyết áp hoặc suy tim.
– Ảnh hưởng đến thromboxane và prostaglandins: NSAIDs ức chế sự sản xuất của cả thromboxane (do COX-1) và prostacyclin (do COX-2), hai chất có vai trò quan trọng trong quá trình đông m.áu. Thromboxane làm tăng khả năng đông m.áu, trong khi prostacyclin làm giảm khả năng đó. Sự ức chế không cân xứng giữa hai chất này (như việc ức chế mạnh mẽ hơn prostacyclin so với thromboxane) có thể dẫn tới tình trạng tăng nguy cơ hình thành cục m.áu đông, gây ra các vấn đề về tim mạch như đau tim và đột quỵ.
– Viêm và atherosclerosis: NSAIDs còn ảnh hưởng tới quá trình viêm trong cơ thể, có thể đóng vai trò trong sự phát triển của atherosclerosis (xơ vữa động mạch). Tình trạng viêm mạn tính được cho là yếu tố đóng góp vào sự hình thành và vỡ của mảng bám trong động mạch, gây ra các vấn đề về tim mạch.
Do những nguy cơ này, các bệnh nhân có t.iền sử bệnh tim mạch hoặc có nguy cơ cao phát triển bệnh tim mạch cần được cân nhắc kỹ lưỡng trước khi sử dụng NSAIDs. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể khuyến nghị các phương pháp điều trị thay thế hoặc sử dụng NSAIDs với liều lượng thấp nhất và trong thời gian ngắn nhất có thể để giảm thiểu rủi ro.
Việc sử dụng NSAIDs, đặc biệt là trong thời gian dài hoặc với liều cao, cần được cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt đối với những bệnh nhân có t.iền sử về bệnh lý dạ dày hoặc những người có nguy cơ cao phát triển các vấn đề dạ dày.
1.3. Ảnh hưởng đến thận
Sử dụng NSAIDs lâu dài có thể gây suy giảm chức năng thận, đặc biệt ở người già và những người có t.iền sử bệnh thận.
Thuốc giảm đau này có thể ảnh hưởng xấu đến thận do một số cơ chế sau:
– Giảm lưu lượng m.áu đến thận: Prostaglandins, mà NSAIDs ức chế sản xuất, có vai trò quan trọng trong việc duy trì lưu lượng m.áu đến thận. Khi sản xuất prostaglandins giảm, lưu lượng m.áu tới thận cũng giảm theo, làm suy giảm chức năng lọc và bài tiết của thận.
– Tăng nguy cơ suy thận cấp: Đặc biệt ở những bệnh nhân có tình trạng suy giảm lưu lượng m.áu đến thận như suy tim, xơ gan, hoặc suy giảm chức năng thận từ trước, việc sử dụng NSAIDs có thể làm tăng nguy cơ suy thận cấp tính.
– Tác động đến cân bằng nước và muối: NSAIDs ảnh hưởng đến sự tái hấp thu nước và muối tại thận, có thể gây tình trạng giữ nước và natri, dẫn đến tăng huyết áp và làm trầm trọng thêm suy tim.
– Ức chế sản xuất prostaglandins: Prostaglandins còn có vai trò trong việc điều chỉnh lọc m.áu và sản xuất nước tiểu. Khi NSAIDs ức chế sản xuất prostaglandins, các quá trình này bị ảnh hưởng, có thể gây ra rối loạn chức năng thận.
– Tăng nguy cơ viêm thận và hội chứng Nephrotic: Một số bệnh nhân sử dụng NSAIDs có thể phát triển tình trạng viêm thận hoặc hội chứng nephrotic, một rối loạn thận hiếm gặp nhưng nghiêm trọng, dẫn đến sự rò rỉ protein lớn từ m.áu vào nước tiểu.
– Tác động đến renin-angiotensin system (RAS): NSAIDs có thể tương tác với hệ thống renin-angiotensin, một hệ thống hormone quan trọng trong việc điều chỉnh huyết áp và sự cân bằng nước và muối. Sự can thiệp vào hệ thống này có thể làm tăng nguy cơ suy thận, đặc biệt ở những bệnh nhân mắc các bệnh lý như đái tháo đường và tăng huyết áp.
Do những rủi ro này, NSAIDs nên được sử dụng cẩn thận, đặc biệt là đối với những bệnh nhân có nguy cơ suy thận cao, bao gồm người cao t.uổi, bệnh nhân mắc bệnh lý thận hiện tại, bệnh nhân suy tim, và những người đang sử dụng các loại thuốc khác có thể ảnh hưởng đến chức năng thận. Trước khi sử dụng NSAIDs, cần thảo luận với bác sĩ để đ.ánh giá lợi ích và rủi ro, và xem xét các lựa chọn điều trị thay thế nếu cần thiết.
2. Lựa chọn và sử dụng thuốc an toàn
Trong quản lý điều trị viêm khớp, việc lựa chọn thuốc giảm đau cần dựa trên đ.ánh giá tỉ mỉ về lợi ích và rủi ro cho từng bệnh nhân. Để sử dụng thuốc giảm đau an toàn, cần lưu ý:
– Đ.ánh giá tình trạng bệnh nhân: Cần xem xét lịch sử bệnh lý cá nhân, bao gồm các vấn đề về dạ dày, tim mạch và thận, trước khi quyết định sử dụng NSAIDs.
– Sử dụng liều lượng tối thiểu hiệu quả: Nên bắt đầu với liều lượng thấp nhất và tăng dần theo nhu cầu, nhằm giảm thiểu nguy cơ tác dụng phụ.
– Thời gian sử dụng hạn chế: Tránh sử dụng NSAIDs trong thời gian dài liên tục, nếu có thể, chỉ dùng khi thực sự cần thiết.
– Giám sát chặt chẽ: Bệnh nhân sử dụng NSAIDs cần được theo dõi sát sao về các triệu chứng liên quan đến dạ dày, tim mạch và thận.
– Xem xét các lựa chọn khác: Trong một số trường hợp, có thể cân nhắc sử dụng các loại thuốc giảm đau khác hoặc kết hợp với liệu pháp không dùng thuốc như vật lý trị liệu.
Trong điều trị viêm khớp, thuốc giảm đau đóng vai trò quan trọng nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro. Việc sử dụng các loại thuốc này đòi hỏi cân nhắc kỹ lưỡng và quản lý chặt chẽ từ phía bác sĩ cũng như hiểu biết và hợp tác từ phía bệnh nhân. Mục tiêu là tối ưu hóa lợi ích điều trị, giảm thiểu tác dụng phụ và đảm bảo an toàn cho bệnh nhân trong suốt quá trình điều trị.