Bệnh bạch cầu nguyên bào lympho cấp (ALL) là một dạng ung thư m.áu tiến triển nhanh chóng và cần được điều trị khẩn cấp.
Dưới đây là những điều cần biết về loại ung thư m.áu này.
Bệnh bạch cầu nguyên bào lympho cấp là gì?
Bệnh bạch cầu là một thuật ngữ chung để chỉ nhiều loại bệnh ung thư m.áu. Như tên bệnh đã chỉ ra, bệnh bạch cầu nguyên bào lymphocytic cấp (ALL) là một loại bệnh bạch cầu cấp tính, trái ngược với bệnh mãn tính, nghĩa là bệnh có xu hướng tăng triển và cần được điều trị kịp thời.
ALL tác động đến tế bào lympho, một loại tế bào bạch cầu. Ở người khỏe mạnh, những tế bào này được tạo ra trong tủy xương, đầu tiên là những tế bào non được gọi là nguyên bào lympho; sau đó trở thành tế bào lympho và sau đó di chuyển trong m.áu để chống lại vi trùng. Tuy nhiên, ở những người bị ALL, các tế bào này không phát triển đúng cách và thay vào đó vẫn ở dạng nguyên bào lympho.
Vấn đề là việc sản sinh quá mức các tế bào lympho còn non (hay nguyên bào lympho) này có nghĩa là không có đủ chỗ trong tủy xương cho các loại tế bào bạch cầu khác. Các tế bào hồng cầu (mang oxy) và tiểu cầu (rất quan trọng cho quá trình đông m.áu) cũng bị đám đông đẩy bật ngoài.
Việc sản sinh tế bào bình thường bị gián đoạn có thể dẫn đến một loạt các vấn đề, bao gồm thiếu m.áu, n.hiễm t.rùng và bầm tím hoặc c.hảy m.áu bất thường.
Là một bệnh ung thư m.áu, ALL có thể khá dễ dàng lan đến các bộ phận khác của cơ thể, bao gồm hạch bạch huyết, gan, lách và não. Không giống như các ung thư khác bắt đầu dưới dạng một khối rắn (khối u), ALL được gọi là khối u “lỏng” vì nó nằm trong m.áu và có thể di căn khắp nơi.
Di căn thường xảy ra thậm chí trước khi bệnh nhân được chẩn đoán, nhưng điều này không có nghĩa là tiên lượng luôn xấu. ALL là loại ung thư hay gặp nhất ở t.rẻ e.m và thanh thiếu niên, nhưng 98% t.rẻ e.m có chẩn đoán bệnh sẽ thuyên giảm chỉ trong vòng vài tuần sau khi bắt đầu điều trị. Khoảng 90% số trẻ này sẽ được chữa khỏi.
Những con số có phần khác đối với người lớn bị ALL. Khoảng 80-90% bệnh nhân ALL người lớn sẽ thuyên giảm; nhưng khoảng một nửa cuối cùng sẽ tái phát.
Các yếu tố nguy cơ ALL
ALL là ung thư tương đối hiếm gặp. Khả năng một người bị bệnh này trong đời là 1/1000, so với nguy cơ mắc ung thư vú suốt đời của phụ nữ là 1/8.
Bất cứ ai cũng có thể bị ALL, nhưng một số người có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. T.rẻ e.m và người lớn trên 50 t.uổi là những đối tượng dễ mắc bệnh nhất.
Các rối loạn di truyền bao gồm hội chứng Down và hội chứng Bloom làm tăng nguy cơ, cũng như việc tiếp xúc với bức xạ và một số hóa chất như benzen.
Thường thì đột biến di truyền không phải là nguyên nhân gây ALL. Tuy nhiên, đột biến có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong suốt cuộc đời của mỗi người khi các tế bào phân chia và tái tạo. Nhiều bệnh nhân ALL có một đột biến mắc phải được gọi là nhiễm sắc thể Philadelphia, là một dạng chuyển đoạn (khi ADN từ một nhiễm sắc thể bị đứt ra và gắn vào một nhiễm sắc thể khác).
Triệu chứng ALL
Các triệu chứng của ALL liên quan việc căn bệnh này cản trở quá trình sản sinh bình thường các tế bào m.áu cần thiết. Bệnh nhân bị bệnh bạch cầu, bao gồm cả những người bị ALL, sản sinh quá mức các tế bào bạch cầu non/bất thường, hậu quả là cản trở sản sinh các tế bào bạch cầu khỏe mạnh cũng như các tế bào hồng cầu và tiểu cầu.
Thiếu các tế bào bạch cầu khỏe mạnh có thể dẫn đến sốt không rõ nguyên nhân hoặc thường xuyên n.hiễm t.rùng. Thiếu hồng cầu có thể gây kiệt sức bất thường, xanh xao và chóng mặt. Và quá ít tiểu cầu dẫn đến dễ bị bầm tím và m.áu sẽ khó đông hơn khi bị thương.
ALL cũng có thể gây đau xương khớp, đổ mồ hôi ban đêm, đau hoặc đầy dưới xương sườn hoặc thở đau.
Chẩn đoán ALL
Vì các triệu chứng không quá đặc hiệu nên bước đầu tiên để chẩn đoán bất kỳ bệnh bạch cầu nào là xét nghiệm m.áu. Những người bị ALL thường có số lượng tế bào bạch cầu cao bất thường (mặc dù đây không phải là những tế bào bảo vệ/khỏe mạnh) và số lượng hồng cầu và tiểu cầu thấp.
Nếu xét nghiệm m.áu cho thấy khả năng mắc bệnh bạch cầu, thì bước tiếp theo thường là chọc hút và sinh thiết tủy xương. Bác sĩ sẽ sử dụng một cây kim nhỏ để lấy mẫu tủy xương lỏng và một lượng nhỏ tủy xương, có thể là từ xương chậu. Những mẫu này sau đó được phân tích cùng với mẫu m.áu để xác định có bị bệnh bạch cầu hay không và nếu có thì đó là ALL hay loại khác.
Nếu bị ALL, bác sĩ sẽ cho biết bạn mắc loại thứ type nào. Có hai loại thứ type chính: bệnh bạch cầu nguyên bào lympho tế bào B và bệnh bạch cầu nguyên bào lympho tế bào T. Loại tế bào B tác động đến tế bào lympho B, là những tế bào bạch cầu dọn dẹp sau khi tế bào T tấn công virus hoặc vi khuẩn. Hầu hết những người bị ALL đều là type tế bào B.
Điều trị ALL
Với ung thư m.áu, không có khối u rắn để phẫu thuật cắt bỏ như ung thư vú hoặc ung thư phổi. Do đó phương pháp điều trị đầu tay tiêu chuẩn thường là hóa trị.
Hóa trị t.iêu d.iệt tế bào ung thư và ngăn chúng tái tạo. Bệnh nhân ALL thường cần yêu cầu ba giai đoạn hóa trị, theo Trung tâm Y tế Đại học Rochester. Giai đoạn đầu tiên để t.iêu d.iệt các tế bào bạch cầu trong m.áu và tủy xương và đưa số lượng tế bào m.áu trở lại bình thường. Giai đoạn hai nhằm loại bỏ những tế bào ung thư còn sót lại và ngăn ngừa tái phát. Giai đoạn ba, giai đoạn duy trì, thường dùng liều hóa trị thấp hơn nhưng mất vài năm để hoàn thành.
Một số bệnh nhân ALL có thể thích hợp với xạ trị hoặc liệu pháp hướng đích. Xạ trị sử dụng liều cao tia X hoặc các hạt khác để t.iêu d.iệt ung thư. Liệu pháp hướng đích là thuốc, thường bằng đường uống, nhằm vào một phần cụ thể của tế bào ung thư và không đụng chạm đến các mô khỏe mạnh. Khoảng 1/4 số bệnh nhân ALL người lớn mang nhiễm sắc thể bất thường gọi là nhiễm sắc thể Philadelphia, thích hợp cho các loại thuốc điều trị hướng đích như imatinib (Gleevec), khi kết hợp với hóa trị, thường rất hiệu quả.
Ba lần khỏi ung thư m.áu
Trong 21 năm cuộc đời của mình, Ian Bridges, ở Washington, ba lân ung thư m.áu và đều vượt qua nhờ những thành tựu y học đột phá.
Năm 2008, khi Ian 8 t.uổi, lưng bắt đầu đau nhói. Bác sĩ chẩn đoán Ian mắc bệnh bạch cầu cấp tính dòng tế bào lympho (ALL). Ban đầu, Ian chẳng hiểu đó là bệnh gì, tưởng mình đang khám sức khỏe định kỳ, được xem phim và nằm chơi thoải mái trong khi truyền dịch.
Bệnh bạch cầu là một dạng ung thư m.áu xảy ra do quá trình biến đổi của các tế bào trong tủy xương gặp vấn đề. Trong trường hợp của Ian, tế bào lympho B – có vai trò tạo ra kháng thể – bị ảnh hưởng. ALL là ung thư xảy ra nhiều nhất ở t.rẻ e.m và ALL tế bào B là dạng phổ biến nhất. Căn bệnh của Ian khiến tế bào liên tục phát triển, gây áp lực cho tủy xương, dẫn đến đau nhức. Nếu không được điều trị, bệnh bạch cầu có thể làm tổn thương nội tạng và gây t.ử v.ong. Tuy nhiên, Ian nằm trong nhóm có cơ hội chữa khỏi khoảng 80 đến 90%.
Ian lo lắng khi những bạn ở trường nhìn chằm chằm vào cái đầu hói của mình, song cậu bé tin rằng bệnh sẽ qua đi. Và cậu đã đúng. Năm Ian 11 t.uổi, tế bào ung thư dường như đã biến mất. Ian quay lại cuộc sống bình thường với trò chơi điện tử, các buổi tụ tập cùng bạn bè và giúp đỡ bố mẹ.
Một năm rưỡi sau, bệnh tái phát, Ian Bridges lao vào một cuộc chiến mới. Lần này, tâm thế thoải mái, vô tư của một đ.ứa t.rẻ đã biến mất. Bà JoAnne, mẹ của Ian, kể lại: “Ian về nhà trong sự giận dữ. Thằng bé đi vào phòng, khóa cửa và nghĩ rằng nếu bệnh không thể chữa khỏi, đã đến lúc nên từ bỏ”. Sau cùng, Ian chấp nhận có thể không qua khỏi, nhưng trước hết phải sống chung với căn bệnh.
Lần này, Ian ý thức rõ hơn về bệnh tình và quá trình điều trị. Theo bác sĩ Rebecca A. Gardner, chuyên khoa ung thư nhi tại Bệnh viện Nhi Seattle, khi bệnh tái phát, khả năng sống sót sau điều trị của Ian là khoảng 60% đến 70%, do các tế bào đã qua hóa trị và nhiều khả năng có thể kháng thuốc.
Bác sĩ chỉ định liệu pháp như trước nhưng cường độ hóa trị cao hơn. Đợt điều trị đã tàn phá cơ thể Ian, khiến lượng tiểu cầu giảm còn 20.000 trên mỗi microlit m.áu (mức bình thường là 150.000-450.000). May mắn thay, cuộc chiến một lần nữa thành công.
Ian khỏi bệnh khi bước sang t.uổi 15 và nạp lại năng lượng sống. Trong quãng thời gian đó, cậu mài dũa kỹ năng hàn. Năm học lớp 9, Ian làm một chiếc bếp nướng ngoài trời mà tới nay gia đình vẫn sử dụng và một số vật dụng khác cho tới năm cuối trung học. Mục đích tiếp theo của Ian là trường nghề – nơi cậu tiếp nối ước mơ trở thành thợ hàn.
Anh Ian Bridges trong xưởng hàn tại Washington. Ảnh: Men’s Health .
Mọi thứ diễn ra êm đẹp cho tới ngày 14/2/2019, anh thợ hàn Ian lại nhận tin bệnh tái phát. Sau mỗi lần điều trị, khả năng khỏi bệnh lại giảm đi, nhưng anh vẫn kịp sống đến ngày một phương pháp được phát triển, hỗ trợ anh trong cuộc chiến thứ ba. Anh tham gia thử nghiệm phương pháp điều trị mới tại Bệnh viện Nhi Seattle, cùng với 27 người khác.
Kế hoạch của các bác sĩ là sử dụng chính tế bào T của bệnh nhân để loại bỏ ung thư. Lý thuyết này được nghiên cứu trong nhiều thập kỷ.
Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu ung thư tại Stanford và Viện Ung thư Quốc gia Mỹ tiến hành thử nghiệm của riêng họ. Bệnh viện Nhi Seattle bắt đầu trị liệu miễn dịch tế bào T vào năm 2012 và cho đến năm 2020 đã chữa bệnh cho hơn 200 bệnh nhân bằng các liệu pháp miễn dịch tương tự. Đối với bệnh nhân ALL, cách này có tỷ lệ chữa khỏi 90%.
Để bắt đầu, bác sĩ lấy m.áu của bệnh nhân, trích xuất các tế bào và bơm lượng m.áu còn lại vào cơ thể. Tại phòng thí nghiệm, các tế bào T được tách ra và tái cấu trúc để chuẩn bị cho cuộc tấn công. Các thụ thể kháng nguyên chimeric của tế bào T mới khi được truyền vào m.áu của bệnh nhân sẽ tìm các protein của tế bào ung thư và t.iêu d.iệt chúng. Nhưng để chiết xuất tế bào T, các bác sĩ phải luồn một chiếc ống vào cổ để hút m.áu ra ngoài. Điều này gây rất nhiều đau đớn.
Tiến sĩ Gardner, người đứng đầu nghiên cứu, cho biết nhiều bệnh nhân có triệu chứng sốt sau khi được nhận các tế bào T mới – dấu hiệu cho thấy phương pháp đang phát huy tác dụng. Chỉ mất vài tuần để thấy tế bào ung thư tiêu biến, nhưng vì chúng bắt nguồn từ tủy xương, Ian phải cấy ghép cả thành phần này.
Để chuẩn bị cho điều đó, Ian phải xạ trị toàn thân hai lần mỗi ngày trong 3 ngày liên tục, sau đó là hai ngày hóa trị để phá hủy tủy hiện tại và thay bằng tủy của người hiến tặng. Không có gì đảm bảo rằng phần tuỷ mới sẽ không bị đào thải.
Ngày 31/10/2019, Ian rời Seattle về nhà tại Washington. Cuộc thử nghiệm hiệu quả với 85% bệnh nhân và Ian có thêm cơ hội sống tiếp. Anh tâm sự: “Nó giúp tôi có góc nhìn mới về mọi thứ. Tôi đã được chứng kiến tương lai đầy triển vọng của lĩnh vực điều trị ung thư”.
Kể từ khi chữa bệnh cho Ian, Bệnh viện Nhi Seattle tiếp tục cải tiến phương pháp, nhắm mục tiêu vào một thụ thể mới giúp cơ thể bệnh nhân tiếp nhận việc điều trị tốt hơn. Tiến sĩ Gardner cho hay: “Mong muốn của chúng tôi là sử dụng cách này hoặc các phương pháp tương tự để thay thế các liệu pháp hóa trị mà t.rẻ e.m phải trải qua”.
Ian còn một điều nữa cần làm đó là bỏ nghề hàn và tìm đến những cơ hội mới. Mùa thu 2020, anh tham gia các lớp học cổ sinh vật học và nhân chủng học tại Green River College. Từ một cậu bé vô tư cho đến một thiếu niên tuyệt vọng, giờ đây, Ian trưởng thành hơn, tràn đầy hy vọng và niềm tin vào tương lai. Càng học hỏi, anh càng bớt ám ảnh về quá khứ.
“Nếu định làm điều gì đó với cuộc đời mình, tôi phải bỏ lại những ký ức cũ”, anh chia sẻ.