Những năm 2010 sẽ đi vào lịch sử như một thập kỷ của nhiều câu chuyện đáng chú ý liên quan đến sức khỏe, đặc biệt trong lĩnh vực ung thư.
Chụp CT ở bệnh nhân nguy cơ cao có thể làm giảm tỷ lệ t.ử v.ong do ung thư phổi nói chung
> Năm: 2011
> Thể loại: Bệnh
Những nỗ lực to lớn của các nhà nghiên cứu và các tổ chức y tế để phát triển một phương pháp chữa bệnh ung thư trong nhiều thập kỷ qua vẫn đang tiếp diễn. Bất kỳ tin vui nào về những bước tiến cũng đều gây được sự chú ý. Thử nghiệm sàng lọc phổi quốc gia năm 2011 cho thấy tỷ lệ t.ử v.ong do ung thư phổi giảm 20% ở những bệnh nhân có nguy cơ cao được chụp CT liều thấp (LDCT) so với chụp X-quang ngực. CDC khuyến nghị những người có nguy cơ cao mắc ung thư phổi – người hút thuốc nặng, hút thuốc gần 15 năm và người từ 55 t.uổi trở lên – nên chụp LDCT hàng năm do những nguy cơ tiềm ẩn.
Trong năm 2016, có 218.229 trường hợp mắc mới ung thư phổi và 148.869 người c.hết vì căn bệnh này ở Mỹ, theo CDC. Hội Ung thư Mỹ ước tính có 142.670 trường hợp t.ử v.ong do ung thư phổi vào năm 2019. Một lý do chính khiến bệnh có tỷ lệ t.ử v.ong cao do khối u thường không gây ra các triệu chứng cho đến khi nó lan rộng, sàng lọc sớm đặc biệt quan trọng để cải thiện tỷ lệ sống thêm.
Thuốc trị u hắc tố ác tính được phê chuẩn
> Năm: 2011
> Thể loại: Điều trị
Sau hơn một thập kỷ không có thuốc tiềm năng mới để điều trị u hắc tố ác tính, dạng ung thư da nguy hiểm nhất, vemurafenib đã được FDA phê chuẩn, được bán với tên biệt dược Zelboraf, vào năm 2011 cho những bệnh nhân bị u hắc tố ác tính di căn mang đột biến BRAF (V600E) hoặc cho những người mang đột biến BRAF (V600E) có khối u không thể phẫu thuật cắt bỏ.
Zelboraf được coi là bước phát triển lớn vì nó có thể cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân u ác tính – thuốc là dạng thuốc viên đơn giản được uống hai lần một ngày – và nó có thể kéo dài thời gian sống thêm. Trong thử nghiệm, thời gian sống mà không bị bệnh nặng của bệnh nhân uống Zelboraf dài hơn gần gấp đôi thời gian sống của bệnh nhân không dùng thuốc.
Từ năm 2011, một số thuốc đã được phê duyệt để điều trị u hắc tố ác tính và tỷ lệ sống của bệnh ung thư c.hết người này đã được cải thiện.
Chỉnh sửa gen thành hiện thực
> Năm: 2012
> Thể loại: Công nghệ
Chỉnh sửa gen là quá trình sửa đổi, thay thế, loại bỏ hoặc thêm gen để thay đổi ADN của sinh vật. Các nhà khoa học đã làm việc trong nhiều thập kỷ để làm cho quá trình chỉnh sửa gen trở nên dễ dàng hơn. Họ đã tạo ra một bước đột phá lớn với việc phát hiện ra các chuỗi ADN lặp, được gọi là CRISPR.
CRISPR là nền tảng của công nghệ chỉnh sửa gen có thể thay đổi thế giới, hoặc, như một số người có thể nói, hack ADN. Phương pháp này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2012. Nó có thể được sử dụng để phát triển các phương pháp điều trị cho một loạt các bệnh, bao gồm ung thư và rối loạn di truyền.
Chỉnh sửa gen đang bị tranh cãi. Rất nhiều vấn đề đạo đức đã nảy sinh khi phương pháp này trở nên phổ biến. Nhưng nó có thể được sử dụng cho mục đích tốt. Vào năm 2015, CRISPR đã được sử dụng thành công lần đầu tiên để cứu mạng sống. Hai b.é g.ái, 11 tháng t.uổi và 16 tháng t.uổi, được điều trị chỉnh sửa gen để chống lại bệnh bạch cầu. Tính đến năm 2017, hai em vẫn khỏe mạnh.
Liệu pháp miễn dịch và ung thư
> Năm: 2016
> Thể loại: Điều trị
Liệu pháp miễn dịch ung thư đã đạt giải Tiến bộ năm 2016 của Hội Ung thư lâm sàng Mỹ. Liệu pháp này được thiết kế để tăng cường hệ thống miễn dịch đến mức nó có thể chống lại ung thư bằng cách nhắm trực tiếp vào các tế bào ung thư. Một trong những liệu pháp miễn dịch thành công nhất cho đến nay là ức chế điểm kiểm tra, làm cho phản ứng miễn dịch mạnh hơn bằng cách giữ cho các tế bào miễn dịch luôn được kích hoạt, điều thường không xảy ra khi một người bị ung thư.
Có thể mất nhiều thập kỷ cho đến khi liệu pháp miễn dịch có thể thay thế các tiêu chuẩn hiện tại trong điều trị ung thư là phẫu thuật, hóa trị và xạ trị, nhưng hiện nay hàng trăm loại thuốc trị liệu miễn dịch đang được thử nghiệm lâm sàng trên người. Một số lợi ích của liệu pháp miễn dịch bao gồm ít tác dụng phụ hơn so với xạ trị hoặc hóa trị, nguy cơ tái phát thấp hơn và làm cho các phương pháp điều trị ung thư khác hiệu quả hơn.
Xét nghiệm m.áu phát hiện ung thư vú sớm 5 năm
> Năm: 2019
> Thể loại: Chẩn đoán
Mặc dù t.ử v.ong do ung thư vú đã giảm, căn bệnh này vẫn là nguyên nhân thứ hai gây t.ử v.ong do ung thư ở phụ nữ Mỹ, theo CDC. Hơn 40.000 phụ nữ c.hết vì bệnh một năm.
Cải thiện tỷ lệ phát hiện sớm đã giúp tăng tỷ lệ sống. Một nghiên cứu gần đây của Anh mang đến hy vọng rằng có thể phát hiện bệnh 5 năm trước khi có bất kỳ dấu hiệu lâm sàng nào. Phương pháp mới là xét nghiệm m.áu xác định phản ứng miễn dịch của cơ thể đối với các kháng nguyên được sản sinh bởi các tế bào khối u. Xét nghiệm có thể có mặt tại các phòng khám trong khoảng 5 năm tới.
Cẩm Tú
Theo 24/7Tempo/Dân trí
Thành công trong thử nghiệm CRISPR chống ung thư
Trong thử nghiệm lâm sàng đầu tiên thuộc loại này, các nhà nghiên cứu đã sử dụng công cụ chỉnh sửa gen CRISPR để tinh chỉnh DNA người của các tế bào miễn dịch với hy vọng chống được bệnh ung thư.
Các nhà khoa học Mỹ đã sử dụng liệu pháp chỉnh sửa gen để điều trị thử nghiệm trên bệnh nhân ung thư. Ảnh: AP
Hiện dữ liệu sơ bộ từ thử nghiệm cho thấy, kỹ thuật này an toàn để sử dụng ở bệnh nhân ung thư. “Đây là bằng chứng cho thấy, chúng ta có thể thực hiện chỉnh sửa gen của các tế bào này một cách an toàn”, đồng tác giả nghiên cứu, GS.TS Edward Stadtmauer, chuyên gia về ung thư tại Đại học Pennsylvania (Mỹ), nói với truyền thông.
Tuy nhiên, “điều trị này chưa sẵn sàng để đi tới thời kỳ đỉnh cao”, ông Sergemauer nói thêm trong một cuộc phỏng vấn với NPR. “Nhưng nó chắc chắn rất hứa hẹn”.
Cho đến nay, chỉ có ba bệnh nhân được điều trị tiên phong – hai bệnh nhân bị ung thư m.áu gọi là đa u tủy và một bệnh nhân mắc sarcoma, ung thư mô liên kết, theo một tuyên bố từ Đại học Pennsylvania. Các nhà nghiên cứu đã có thể loại bỏ, chỉnh sửa và trả lại các tế bào một cách an toàn cho cơ thể bệnh nhân. An toàn được đo lường về mặt tác dụng phụ và các tác giả nhận thấy rằng, không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào từ việc điều trị.
Một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I, như thử nghiệm này, thường chỉ bao gồm một số ít bệnh nhân, theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ. Thử nghiệm nhỏ nhằm xác định cách cơ thể phản ứng với một loại thuốc mới và liệu bệnh nhân có gặp bất kỳ phản ứng bất lợi nào không. Các thử nghiệm ở giai đoạn I không giải quyết được liệu một loại thuốc có thực sự có tác dụng điều trị một tình trạng hay không – câu hỏi đó sẽ xuất hiện trong các thử nghiệm sau này. Như hiện tại, nghiên cứu CRISPR cho thấy, rằng liệu pháp điều trị ung thư mới ít nhất là an toàn cho ba người trên.
Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học lần đầu tiên sử dụng CRISPR để cắt ba gen từ DNA của các tế bào miễn dịch. Hai trong số các gen chứa các hướng dẫn để xây dựng các cấu trúc trên bề mặt tế bào đã ngăn các tế bào ung thư (T) liên kết với các khối u đúng cách, theo tuyên bố của trường đại học. Gen thứ ba cung cấp các hướng dẫn cho một loại protein có tên PD-1, một loại “công tắc tắt” mà các tế bào ung thư tác động vào để ngăn chặn các cuộc tấn công của tế bào miễn dịch.
“Việc sử dụng chỉnh sửa CRISPR của chúng tôi là hướng tới việc cải thiện hiệu quả của các liệu pháp gen, chứ không phải chỉnh sửa DNA của bệnh nhân”, đồng tác giả GS.TS Carl June, chuyên gia về liệu pháp miễn dịch tại Đại học Pennsylvania, cho biết trong tuyên bố.
Với những điều chỉnh này được thực hiện, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một loại virus đã được sửa đổi để đặt một thụ thể mới trên các tế bào T trước khi tiêm chúng trở lại vào bệnh nhân. Các thụ thể mới sẽ giúp các tế bào xác định vị trí và tấn công các khối u hiệu quả hơn.
Cho đến nay, các tế bào được chỉnh sửa vẫn tồn tại bên trong cơ thể bệnh nhân và được nhân lên như dự định, ông Sergemauer nói với truyền thông. Tuy nhiên, không rõ liệu và khi nào các tế bào sẽ phát động một cuộc tấn công hiệu quả lên căn bệnh ung thư của bệnh nhân, ông nói thêm.
Hai đến ba tháng sau khi điều trị, bệnh ung thư của một bệnh nhân tiếp tục xấu đi như trước khi điều trị và một bệnh nhân khác vẫn ổn định, theo báo cáo. Bệnh nhân thứ ba mới được điều trị nên chưa có đ.ánh giá phản ứng.
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu đặt mục tiêu tuyển dụng thêm 15 bệnh nhân vào thử nghiệm để đ.ánh giá cả sự an toàn của kỹ thuật và hiệu quả của nó trong việc loại bỏ ung thư. Các kết quả an toàn sớm sẽ được trình bày vào tháng tới tại một cuộc họp của Hiệp hội Huyết học Hoa Kỳ tại Orlando, Florida, theo tuyên bố của trường đại học.
Lê Đức
Theo Livescience