Phân biệt bệnh quai bị và viêm tuyến nước bọt

Viêm tuyến nước bọt và quai bị là 2 bệnh cùng nằm ở tuyến mang tai nhưng nguyên nhân gây bệnh khác nhau và việc điều trị cũng khác nhau.

Hậu quả của 2 bệnh gây ra rất khác nhau. Vì vậy, cần phân biệt rõ bệnh viêm tuyến nước bọt và quai bị để có hướng theo dõi và xử trí đúng đắn.

Sự khác nhau giữa 2 bệnh

Bệnh quai bị: Nếu tuyến nước bọt mang tai bị viêm do tác nhân là virus quai bị thì được coi là bệnh quai bị, tuy nhiên tỷ lệ viêm tuyến mang tai do virus quai bị chỉ chiếm 24% trong tổng số các nguyên nhân gây bệnh tại tuyến này.

Bệnh quai bị do virus thuộc nhóm Paramyxovirus gây nên. Bệnh lây truyền theo đường hô hấp, qua các bụi nước của hơi thở, truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành. Bệnh quai bị rất phổ biến, có đặc điểm dịch tễ rõ ràng, thường phát bệnh nhiều nhất vào mùa xuân, đặc biệt là trong khoảng thời gian tháng 4 và tháng 5, có khi bùng lên thành dịch ở những nơi tập trung đông người (nhà trẻ, trường học).

Sau khi tiếp xúc với virus quai bị khoảng 14-24 ngày (giai đoạn ủ bệnh đã có thể lây lan), người bệnh có biểu hiện sốt cao từ 38-39 o C, đau đầu, chán ăn, cảm giác khó nuốt, khó nói chuyện, đau nhức các khớp xương. Vùng tuyến nước bọt mang tai sưng to, lan ra vùng trước tai và lan xuống dưới hàm. đẩy tai lên trên và ra ngoài, có khi sưng lan đến ngực gây phù trước xương ức.

Da ở vùng sưng có màu sắc bình thường, không bị nóng đỏ và có tính đàn hồi. Bệnh quai bị thường sưng cả 2 bên tuyến nước bọt mang tai, có khi chỉ sưng 1 bên, sưng 2 bên so với sưng 1 bên có tỷ lệ là 6/1. Tuyến mang tai trong bệnh quai bị thường sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi giảm sưng từ từ trong khoảng 1 tuần. Nếu sưng cả 2 bên thì có thể không sưng lên cùng lúc, bên này bắt đầu sưng khi bên kia đã giảm sưng.

Viêm tuyến nước bọt mang tai thường diễn biến lành tính.

Song song với các tổn thương ở tuyến nước bọt, virus quai bị còn làm tổn thương ở ngoài tuyến nước bọt gây viêm t.inh h.oàn, viêm màng não, viêm não, viêm tụy cấp, viêm thanh khí phế quản, viêm phổi kẽ, viêm đa khớp hoặc biểu hiện ở các cơ quan khác như tuyến lệ, tuyến ức, tuyến giáp, tuyến vú, buồng trứng. Các tổn thương này thường có các triệu chứng không điển hình, thường diễn biến lành tính.

Bệnh viêm tuyến nước bọt mang tai: Đơn thuần do các tác nhân gây bệnh như: Staphylococcus aureus, Parainfluenza, coxsackie… gây nên. Đôi khi cũng gặp viêm tuyến nước bọt mang tai do sỏi, làm tắc ống dẫn tuyến và gây viêm. Bệnh thường chỉ gây ra các tổn thương tại tuyến nước bọt, diễn biến lành tính, đa số tự khỏi hoặc có trường hợp chuyển sang viêm mạn tính phì đại tuyến.

Khi bị viêm, vùng tuyến nước bọt mang tai sưng to, sưng lan rộng ra xung quanh tuyến, da ở vùng tuyến bị sưng có biểu hiện tấy đỏ, đau, nói và nuốt đều rất đau, có hạch viêm phản ứng ở vị trí góc hàm hoặc sau tai cùng bên. Sốt từ 38-39 o C, ấn vào vùng tuyến mang tai thấy có mủ chảy ra ở miệng ống Stenon.

Viêm tuyến nước bọt mang tai do sỏi thường bị một bên, hay tái phát. Bệnh nhân khi nhìn thấy đồ chua hoặc trước mỗi bữa ăn ngon sẽ đau tức vùng tuyến mang tai, đồng thời nước bọt tăng tiết trong miệng.

Viêm tuyến nước bọt mang tai do vi khuẩn hay virus khác cũng hay biểu hiện ở 1 bên. Bệnh xuất hiện sau: viêm amidan, viêm lợi, giảm hay mất bài tiết nước bọt sau thủ thuật, sau đợt điều trị an thần kinh hoặc tăng năng giáp, giảm khả năng miễn dịch, dùng thuốc giảm miễn dịch, viêm tụy hoại tử, c.hảy m.áu… Viêm tuyến nước bọt mang tai có sưng đau nhưng ấn vẫn mềm, vùng da bao quanh tuyến nhẵn.

Khác nhau về biến chứng của bệnh

Viêm tuyến nước bọt mang tai đơn thuần thường không gây ra tổn thương ngoài tuyến nước bọt. Bệnh có tính chất đơn lẻ, thường xuất hiện khi có viêm nhiễm khác ở vùng miệng và mũi họng. Bệnh có thể gặp ở bất cứ lứa t.uổi nào nhưng không lây lan thành dịch.

Bệnh quai bị nếu không điều trị kịp thời, đúng cách, virus gây quai bị có thể dẫn đến biến chứng như:

Viêm t.inh h.oàn: Đây là biến chứng thường gặp ở t.uổi dậy thì, hiếm gặp ở t.rẻ e.m dưới 2 t.uổi và ở người lớn trên 40 t.uổi. Viêm t.inh h.oàn thường xuất hiện sau khi sưng tuyến mang tai từ 1-2 tuần. Biểu hiện đau t.inh h.oàn lúc sắp sưng, sau đó t.inh h.oàn sưng to gấp 3-4 lần so với bình thường. Thường chỉ sưng 1 bên nhưng cũng có thể sưng 2 bên, khoảng 2 tuần hết sưng. Sau 2 tháng mới có thể đ.ánh giá được t.inh h.oàn có bị teo hay không. Tỷ lệ teo t.inh h.oàn gặp phải là 30-40%, nếu bị teo t.inh h.oàn cả 2 bên thì khả năng vô sinh khá cao.

Viêm buồng trứng: Chiếm 7% trường hợp mắc bệnh quai bị ở t.uổi sau dậy thì (hiếm khi gây vô sinh). Nếu nhiễm bệnh quai bị ở phụ nữ có thai: 3 tháng đầu có khả năng gây dị dạng, sẩy thai… vào 3 tháng cuối có thể gây tăng nguy cơ thai c.hết lưu hoặc sinh non.

Lưu ý: Bệnh quai bị vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, kháng sinh không có tác dụng, thường chỉ điều trị giảm triệu chứng bệnh. Vì vậy cách tốt nhất là tiêm vắc-xin ngừa bệnh ngay từ bé để có miễn dịch.

Hậu quả của trào lưu antivaccine, nhìn từ những ca bạch hầu

Trào lưu chống tiêm chủng vẫn tiềm ẩn nguy cơ đến tận bây giờ, có thể đẩy t.rẻ e.m vào những hiểm họa mới của các loại dịch bệnh cũ…

Chỉ trong hơn một tuần qua, có đến 16 ca bệnh bạch hầu đã được ghi nhận tại 1 số tỉnh khu vực Tây Nguyên và TP Hồ Chí Minh; 1 trường hợp trong số đó đã t.ử v.ong, sự việc đang dấy lên những lo ngại về sự bùng phát một loại dịch bệnh thường gây biến chứng nguy hiểm về tim, thận và hệ thần kinh, mang tên bạch hầu.

Bệnh bạch hầu đang bùng phát tại 1 số tỉnh khu vực Tây Nguyên và TP Hồ Chí Minh.

Điều đáng nói là dù đã có vaccine dự phòng, nhưng ngoài bạch hầu, mấy năm gần đây cũng từng xảy ra nhiều ca bệnh sởi, ho gà, quai bị, thuỷ đậu, viêm não ở cả vùng khó khăn và thành phố lớn. Phải chăng đây là hậu quả của trào lưu antivaccine từng xảy ra rầm rộ cách đây hơn 1 năm? Hậu quả sẽ ra sao nếu trào lưu tẩy chay vaccine chưa chấm dứt?

Dù là bệnh hiếm gặp và đã có vaccine dự phòng, nhưng từ năm 2019 đến nay, số trường hợp mắc bạch hầu ở nước ta có chiều hướng gia tăng. Năm ngoái, cả nước ghi nhận 50 ca bạch hầu ở 7 tỉnh, thành phố. 6 tháng đầu năm nay, dù chưa có số liệu thống kê nhưng chỉ trong hơn 1 tuần qua đã ghi nhận 16 ca bạch hầu tại Đắk Nông, Kon Tum và thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết bệnh nhân đều là những trẻ từ 9 t.uổi trở lên hoặc người lớn.

Tiến sĩ Đặng Thị Thanh Huyền, Phó trưởng Văn phòng Chương trình Tiêm chủng mở rộng Quốc gia cho biết, tất cả những trường hợp bị bệnh đều không được tiêm vaccine hoặc tiêm chủng không đầy đủ.

“Theo một khảo sát tại Kon Tum năm 2016-2017 cho thấy gần 50% các trường hợp từ 6 đến 25 t.uổi không có miễn dịch phòng bệnh. Đ.ánh giá gần đây ở Hải Dương hơn 90% các bà mẹ trong độ t.uổi sinh đẻ không còn kháng thể phòng bệnh bạch hầu nữa”, TS Huyền nói.

Tiêm vawcxin để phòng bệnh bạch hầu.

Trong khi Chương trình tiêm chủng mở rộng luôn cung ứng đầy đủ vaccine xuống tận các trạm y tế xã nhưng hiện nay các ổ dịch bạch hầu vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Bệnh không chỉ xuất hiện ở những “vùng lõm” về tiêm chủng (nơi cách xa trạm y tế và việc đi lại khó khăn) mà còn xảy ra ở cả ở thành phô lớn; đặt ra thách thức trong việc nâng cao tỷ lệ tiêm chủng.

Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều dịch bệnh tưởng chừng sắp được thanh toán nhờ vaccine cũng đã xuất hiện trở lại. Năm 2014, dịch bệnh sởi bùng phát ở nước ta đã cướp đi sinh mạng của hơn 140 trẻ nhỏ. Tiếp đó là ho gà, quai bị, thuỷ đậu, viêm não Nhật Bản…

Theo Giáo sư Tiến sĩ khoa học Nguyễn Thu Vân, nguyên Giám đốc Công ty Vắc-xin và sinh phẩm số 1, Bộ Y tế, đây là hậu quả của trào lưu antivaccine trong thời gian dài.

“Trong thời gian trước xảy ra các trường hợp bị phản ứng phụ không mong muốn sau khi tiêm vaccine nên nhiều gia đình e ngại không đưa con đi tiêm chủng nữa, trong thời gian rất dài, hơn chục năm rồi. Những trẻ không được tiêm vaccine sẽ không có đáp ứng miễn dịch, khi tiếp xúc với mầm bệnh thì sẽ bị bệnh và lây lan cho những trẻ chưa được tiêm chủng khác”, TS Nguyễn Thu Vân phân tích.

Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều dịch bệnh tưởng chừng sắp được thanh toán nhờ vaccine cũng đã xuất hiện trở lại.

Chỉ mới năm ngoái, sau khi xảy ra 1 số sự cố trong tiêm chủng, trên mạng xã hội đã xuất hiện những hội, nhóm antivaccine thường xuyên chia sẻ những thông tin sai lệch; từ đó kêu gọi tẩy chay vaccine. Trào lưu chống tiêm chủng vẫn tiềm ẩn đến tận bây giờ, có thể đẩy t.rẻ e.m vào những hiểm họa mới của các loại dịch bệnh cũ. Sau khi 2 con gái đều mắc bệnh sởi, trong đó 1 bé nguy kịch, chị Dương Thị Đang ở Phù Cừ, Hưng Yên nhận ra rằng, nếu không tiêm chủng thì nguy cơ trẻ t.ử v.ong còn cao hơn.

“Trước khi em sinh cháu, nghe trên mạng nói về việc tai biến khi tiêm vaccine, em rất sợ. Nhưng sau lần phải chăm 2 con bị bệnh sởi, một cháu nguy kịch vì viêm phổi thì em đã hiểu ra rằng nếu không tiêm chủng thì nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của con còn cao hơn…”, chị Đang nói.

Vaccine được ra đời cách đây hơn 100 năm; nhờ đó mà đến nay trên thế giới đã thanh toán được nhiều bệnh truyền nhiễm. Việt Nam đã thanh toán được bệnh bại liệt vào năm 2000, loại trừ bệnh uốn ván sơ sinh vào năm 2005. Nếu so sánh tỷ lệ mắc các bệnh đã có vaccine dự phòng của năm 2010 so với năm 1984 sẽ thấy: bệnh bạch hầu giảm 585 lần, bệnh ho gà giảm 937 lần và bệnh sởi giảm 573 lần…

Tuy nhiên, khi dịch bệnh không còn nhiều như trước nữa thì người dân lại lầm tưởng vaccine không có tác dụng gì. Ông Đặng Quang Tấn, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế khẳng định, tiêm vaccine vẫn là biện pháp hiệu quả nhất để phòng bệnh.

“Thời gian qua, tại Đắk Nông và một số tỉnh ghi nhận những ca bệnh bạch hầu. Qua điều tra, đ.ánh giá của Cục Y tế dự phòng thì đa phần bệnh nhân thường không được tiêm vaccine. Để phòng tránh bệnh bạch hầu thì tất cả ông bố bà mẹ nên đưa trẻ đi tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch…”, ông Tấn cho hay.

Dẫu biết rằng vẫn có một tỷ lệ rất nhỏ trẻ bị dị ứng với thành phần nào đó của vaccine gây ra những tai biến không mong muốn, kể cả trong tiêm chủng dịch vụ, nhưng không thể phủ nhận được thành quả phòng bệnh của vaccine.

Tại Mỹ, bang California từng tự hào về việc tiêm vaccine là không bắt buộc vì đó là “quyền tự do” và “lựa chọn của phụ huynh”, nhưng sau khi bùng nổ dịch sởi, chính quyền bang này đã ký luật bắt buộc tiêm vắc xin cho t.rẻ e.m.

Còn tại Việt Nam, dịch bệnh sởi 2014 và mới đây nhất là những ca bệnh bạch hầu liên tiếp xảy ra, 1 lần nữa cảnh báo về hậu quả của trào lưu antivaccine./.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *