Quả thần kỳ biến vị chua cay thành ngọt

Hợp chất miraculin trong trái thần kỳ thay đổi cảm thụ vị của lưỡi khiến các thực phẩm vị đắng, chua, cay tạm thời trở nên ngọt hơn.

Dược sĩ dinh dưỡng Lê Kim Phụng, nguyên giảng viên trường Đại học Y dược TP HCM, cho biết quả thần kỳ có tên khoa học là Synsepalum dulcificum, thuộc họ Sapotaceae. Quả chín có màu đỏ mọng, mọc thành từng chùm 3-5 quả, có kích thước như sim rừng.

Quả thần kỳ tươi có thể đ.ánh lừa vị giác của con người trong khoảng 2 tiếng. Ảnh: kkn ews

Trong quả thần kỳ thấy có chứa đường và miraculin. Hợp chất miraculin thay đổi tính cảm thụ vị của các gai vị giác lưỡi. Lưỡi sẽ trở nên thích ứng và nhận định duy nhất với vị ngọt. Khi ăn loại quả này, nó khiến vị chua, cay, đắng của các loại quả hoặc thức ăn, thức uống kế tiếp trở nên ngọt hơn. Ví dụ, sau khi ăn quả thần kỳ rồi nếm dịch quả chanh sẽ không còn cảm giác chua, thay vào đó là vị ngọt. Nếu ăn trái tươi, cảm giác ngọt kéo dài từ một đến hai giờ.

“Miraculin là một protein không bền ở nhiệt độ cao và p.hân h.ủy khi đun nóng. Vì vậy khi nấu chín, quả thần kỳ sẽ không còn tác dụng trên vị giác nữa”, dược sĩ Phụng nói.

Quả thần kỳ chỉ có tác dụng đ.ánh lừa vị giác, không làm thay đổi bản chất các loại thực phẩm. Khi chúng ta sử dụng lượng lớn những chất có vị chua mang tính axit hoặc cay nồng, mặc dù vị giác cho cảm giác ngọt nhưng bản chất vẫn không thay đổi. Điều đó sẽ gây tổn thương trong niêm mạc miệng và dạ dày. Nếu dùng lâu dẫn đến loét miệng, vòm họng, ung thư dạ dày và gan.

Theo Cục Quản lý Dược và Thực phẩm của Mỹ (FDA), những chế phẩm có liên quan đến quả thần kỳ đều được dán nhãn là nhóm thực phẩm bổ sung (dietary supplement) thay vì “chất làm ngọt” (sweetener). Từ năm 1970, người Mỹ khi ăn kiêng có thể mua miraculin ở dạng viên để tự đ.ánh lừa vị giác của họ. Những quả chua như chanh hoặc các loại đồ chua như dưa chua, rau quả ngâm giấm chua; cay đắng như tương ớt, rượu bia… đều trở nên ngọt sau khi nếm miraculin.

Theo dược sĩ Phụng, loại quả này chỉ có tác dụng hỗ trợ, không có tác dụng làm hạ đường huyết trên bệnh nhân tiểu đường và người ăn kiêng. Tuy nhiên, độ ngọt của quả khiến cho bệnh nhân không muốn sử dụng thêm các chất ngọt khác. Từ đó, lượng đường hấp thu vào cơ thể sẽ giảm, tốt cho những người đang áp dụng chế độ ăn kiêng. Tại Nhật Bản, quả thần kỳ được dùng hỗ trợ những người tiểu đường và ăn kiêng.

Theo VNE

Động kinh và cách xử trí

Người bị chứng động kinh khi có ít nhất từ hai cơn động kinh trở lên, nếu chỉ có một cơn duy nhất thì chưa gọi là động kinh.

Ảnh minh họa

Bác sĩ Lê Văn Tuấn, Khoa Thần Kinh, Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM cho biết cơn động kinh được định nghĩa là tình trạng bệnh lý của não, đặc trưng bởi sự phóng lực quá mức, đồng bộ và nhất thời của một nhóm các neuron trong não, biểu hiện bằng các triệu chứng tương ứng với vùng não bị kích thích.

Chứng động kinh được biểu hiện bởi các cơn động kinh tái phát. Thông thường, một người được chẩn đoán là động kinh khi có ít nhất từ hai cơn động kinh trở lên, nếu họ chỉ có một cơn duy nhất thì chưa thể gọi là động kinh.

Động kinh có thể xảy ra ở mọi lứa t.uổi, chiếm tỷ lệ khoảng 1% dân số. Khoảng 50% những trường hợp động kinh mới xảy ra ở trẻ nhỏ và thiếu niên, với tỷ lệ cao nhất trong vài tháng đầu sau sinh. Nhiều người bị động kinh ở t.uổi nhỏ và thiếu niên, sau đó các cơn động kinh có thể giảm khi họ đến t.uổi trưởng thành. Tỷ lệ động kinh cũng tăng ở người lớn t.uổi.

Một số nguyên nhân khác có thể gây ra các cơn động kinh như sốt cao co giật ở trẻ nhỏ, bệnh nhân ngưng một số thuốc đang dùng, ngộ độc, phản ứng dị ứng, n.hiễm t.rùng, rối loạn điện giải, hạ đường huyết… Những nguyên nhân này chỉ nhất thời và không được xem là động kinh. Một số bệnh lý như tai biến mạch m.áu não hay đau nửa đầu có thể nhầm lẫn với động kinh do các triệu chứng tương tự như tê, yếu nửa người, các triệu chứng thị giác như nhìn mờ, mù tạm thời…

Bác sĩ Tuấn cho biết, tùy vào loại động kinh mà bác sĩ sẽ kê đơn thuốc cho bệnh nhân. Do đó, quan trọng nhất là phải phân biệt được cơn động kinh thuộc loại nào.

Các cơn động kinh cục bộ: Xảy ra khi có quá nhiều hoạt động điện khu trú ở một vùng trong não.

Cơn động kinh cục bộ đơn giản: Người bệnh có thể có cảm giác lạ, khó mô tả hay bất thường như co giật một phần của cơ thể, thị giác hay khứu giác, cảm giác lo lắng sợ sệt, khó chịu ở vùng dạ dày, chóng mặt.

Cơn động kinh cục bộ phức tạp: Người bệnh không biết được cơn động kinh đang xảy ra, trông họ lú lẫn, có thể có các hành vi vô nghĩa như đi qua đi lại, xoay đầu, xoa tay… Họ không thể nhớ được các hành vi này sau cơn động kinh.

Các cơn động kinh toàn thể: Xảy ra khi hoạt động điện trong não quá nhiều ảnh hưởng đến toàn bộ não. Có hai dạng cơn toàn thể thường gặp nhất là cơn vắng ý thức và cơn co cứng – co giật toàn thể.

Cơn vắng ý thức: Người bệnh nhìn chằm chằm, mắt có thể đảo lên trên biểu hiện bởi tình trạng mất ý thức trong khoảng 5 – 15 giây. Khi cơn động kinh chấm dứt thì người bệnh không còn nhớ những gì đã xảy ra. Cơn vắng ý thức thường xảy ra ở t.rẻ e.m và biến mất ở t.uổi thiếu niên. Tình trạng này hiếm khi gặp ở người lớn.

Cơn co cứng – co giật toàn thể: Người bệnh thường phát ra tiếng kêu ngắn, mất ý thức và ngã xuống sàn (tiếng kêu này không phải do đau). Các cơ sẽ co cứng và tay chân sẽ co giật. Người bệnh có thể đái dầm.

Sau cơn động kinh, người bệnh có thể tỉnh lại ngay hoặc có thể cảm thấy mệt mỏi, lú lẫn hay rối loạn định hướng, kéo dài trong vài phút, vài giờ hoặc thậm chí vài ngày, người bệnh mới từ từ tỉnh lại.

Nếu cơn động kinh kéo dài hơn 5 phút hay có nhiều cơn động kinh liên tiếp và người bệnh không hồi phục đầy đủ giữa các cơn động kinh thì đây là một tình huống cấp cứu, cần được xử trí ngay nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng hoặc để lại di chứng lâu dài.

Khoảng 60% các trường hợp không biết được nguyên nhân của động kinh mặc dù người bệnh đã xét nghiệm, chụp hình não (chụp cắt lớp hay chụp cộng hưởng từ). Những trường hợp này được gọi là động kinh vô căn. Các trường hợp còn lại có thể do các nguyên nhân cụ thể như tổn thương não của thai nhi, chấn thương lúc sinh (do thiếu oxygen), ngộ độc, n.hiễm t.rùng hệ thần kinh trung ương, chấn thương đầu, u não, tai biến mạch m.áu não… Đa số động kinh không có tính di truyền. Tuy nhiên, một số người bệnh bị động kinh có khuynh hướng di truyền.

Bác sĩ Nguyễn Trần Nam, Bệnh viện Nhi đồng Thành phố, cho biết khi xử trí người bệnh động kinh phải giữ bình tĩnh, để người bệnh tránh xa lửa, vật nhọn, hay chỗ dễ té để tránh chấn thương. Ghi lại khoảng thời gian bị co giật. Khi hết co giật, để người bệnh nằm nghiêng một bên nhằm tránh nguy cơ tắc đường thở do dị vật như răng giả, đàm nhớt, chất ói từ dạ dày. Sau cơn co giật người bệnh thường mất ý thức, cần ở cạnh người bệnh cho đến khi họ tỉnh hẳn. Không nên để bất cứ vật gì như khăn, muỗng, vắt chanh… vào miệng người bệnh. Không giữ c.hặt n.gười bệnh khi họ đang co giật.

Người bị động kinh có thể gặp một số vấn đề về tâm lý và xã hội. Họ thường được chăm sóc quá kỹ hay bị những hạn chế không cần thiết trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, họ còn có thể còn gặp một số vấn đề cá nhân khác như sự giận dữ, chán nản và trầm cảm. Tuy nhiên, nếu được chăm sóc và điều trị tốt, nhiều người bệnh vẫn có thể có cuộc sống, sinh hoạt và công việc như bình thường.

Theo VNE

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *