Tai biến mạch m.áu não: Cấp cứu thế nào để tránh t.ử v.ong?

Tai biến mạch m.áu não đặc biệt nguy hiểm, nếu không được cấp cứu kịp thời có thể gây nguy hiểm cho tính mạng.

Nguyên nhân gây tai biến mạch m.áu não

Tai biến mạch m.áu não là tình trạng đột quỵ não do m.áu đến nuôi dưỡng não rất ít hoặc không đến được do hẹp hoặc tắc nghẽn động mạch não ( nhồi m.áu não) hoặc vỡ mạch m.áu não (xuất huyết não).

Người ta gọi đột quỵ não là não bộ bị tổn thương một cách đột ngột do thiếu m.áu. Khi m.áu lên não bị thiếu với bất kỳ lý do gì, các tế bào não bộ sẽ ngưng hoạt động và có thể bị c.hết trong vài phút dẫn đến cơ thể yếu, tê bì, mất cảm giác nửa người, không nói được (do tê, liệt), miệng méo, mắt nhắm không được hoặc hôn mê ngay sau đó, thậm chí t.ử v.ong nếu không được cấp cứu kịp thời. Nhiều trường hợp được cứu sống nhưng có thể bị tàn phế suốt đời, giảm t.uổi thọ và không còn khả năng lao động…

Bên cạnh đó có một số yếu tố thuận lợi gây tai biến mạch m.áu não, đó là sự thay đổi đột ngột của thời tiết ( nóng sang lạnh và ngược lại). Những bệnh nhân có bệnh lý về tim mạch, tăng huyết áp khi nóng lạnh đột ngột xảy ra rất dễ bị tai biến mạch m.áu não.

Tai biến mạch m.áu não dễ gặp ở những người trên 55 t.uổi có tăng huyết áp (do xơ vữa động mạch), đái tháo đường, rối loạn mỡ m.áu, béo phì, nghiện t.huốc l.á, nghiện hoặc lạm dụng bia rượu, lười vận động. Một số trường hợp do rối loạn tuần hoàn não cấp tính. Ngoài ra chấn thương tâm lý, căng thẳng thần kinh (stress) xảy ra nhiều, liên tục mà không được khắc phục có thể gây rối loạn tuần hoàn não và tai biến mạch m.áu não.

Tai biến mạch m.áu não llà một loại bệnh nặng, tỷ lệ t.ử v.ong cao, nhưng nếu qua cơn nguy kịch thường để lại nhiều di chứng làm mất khả năng lao động, giảm trí nhớ.

Biểu hiện

Người có bệnh về huyết áp, xơ vữa động mạch, đái tháo đường… đột nhiên cảm thấy hơi nhức đầu hoặc choáng váng, tê nửa người, ngáp vặt liên tục có thể là các dấu hiệu sớm của tai biến mạch m.áu não (đột quỵ).

Triệu chứng thường thấy của tai biến mạch m.áu não thường khởi đầu là nhức đầu, chóng mặt, mất định hướng, yếu một tay, một chân cùng phía, miệng méo, nhân trung lệch sang bên lành, nói khó. Nhiều trường hợp tai biến mạch m.áu não xảy ra đột ngột vào ban đêm nên bản thân người bệnh và người nhà không thể biết, khi phát hiện đã hôn mê, đại tiểu tiện không tự chủ.

Lời khuyên của bác sĩ

Mặc dù tai biến mạch m.áu não là bệnh nguy hiểm nhưng hoàn toàn có thể giảm được nguy cơ nếu biết cách phòng ngừa. Người cao t.uổi cần được khám bệnh định kỳ, đặc biệt là những người có bệnh về tăng huyết áp hoặc huyết áp thấp kèm đái tháo đường, tăng mỡ m.áu, xơ vữa động mạch. Mùa lạnh cần mặc ấm, tắm rửa nước ấm. Không nên tắm vào sáng sớm hoặc chiều tối.

Cạnh đó cần có chế độ dinh dưỡng hợp lý để hạn chế xơ vữa động mạch như hạn chế ăn mỡ động vật, ăn nhiều cá (tốt nhất mỗi tuần ăn 2 – 3 lần cá thay cho ăn thịt), ăn nhiều rau, uống đủ lượng nước hàng ngày (tránh cô đặc m.áu sẽ hình thành huyết khối). Cần bỏ t.huốc l.á, không nên lạm dụng bia, hạn chế ăn mặn. Đối với những người đã từng bị đột quỵ não, để phòng tái phát là tích cực điều trị theo đơn của bác sĩ khám bệnh, đặc biệt là duy trì huyết áp ở mức trung bình.

Cần vận động cơ thể bằng các hình thức thể dục đều đặn, nhẹ nhàng, không tập quá sức mình hoặc đi bộ mỗi lần khoảng 15 – 20 phút, tổng cộng thời gian đi bộ không quá 60 phút.

Cách xử trí đúng
Khi có triệu chứng khởi đầu của bệnh tai biến mạch m.áu não xảy ra, người nhà nên nới lỏng quần áo và để người bệnh nằm ở trên mặt phẳng, gối đầu cao khoảng 30 độ và ở tư thế nằm nghiêng để tránh nguy cơ bị sặc do các chất tiết ra từ miệng. Cần giữ ấm cơ thể cho bệnh nhân để tránh những cơn co giật. Tuyệt đối không cho bệnh nhân ăn, uống gì khi nghi ngờ bệnh nhân bị đột quỵ và không tự ý cho bệnh nhân uống bất kỳ một loại thuốc nào.

Nếu bệnh nhân còn tỉnh táo, hướng dẫn người bệnh thở thật sâu và đều nhằm giúp cho m.áu lên não tốt hơn. Sau đó, nhanh chóng đưa người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu kịp thời, tránh đưa bệnh nhân đi xa vì thời gian di chuyển kéo dài càng làm cho tình trạng bệnh sẽ nặng hơn và nguy cơ t.ử v.ong cao hơn.

Theo BS Tuấn Anh/Suckhodoisong.vn

Tiểu đêm 3- 4 lần, tưởng thận yếu, ai dè mắc chứng ngừng thở có thể đột tử

Hội chứng ngưng thở khi ngủ nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ gây nhiều biến chứng nguy hiểm: tai biến mạch m.áu não, đau thắt ngực, nhồi m.áu cơ tim, tai nạn giao thông, giảm trí nhớ, mất tập trung.

Người ngủ ngáy tiềm ẩn nhiều nguy cơ.

Hội chứng ngưng thở khi ngủ là một rối loạn đặc trưng của bệnh lý hô hấp có liên quan đến giấc ngủ. Biểu hiện lâm sàng của hội chứng này là những cơn ngừng thở từng lúc khi ngủ trong thời gian từ 10 giây trở lên, dẫn đến giảm nồng độ oxy trong m.áu, sau đó động tác hô hấp hoạt động trở lại thường phối hợp với sự thức dậy ngắn.

Theo PGS.TS Vũ Văn Giáp, Phó Giám đốc Trung tâm Hô hấp – Bệnh viện Bạch Mai, triệu chứng đáng chú ý là ngủ ngáy, ngáy rất to và người bệnh có cơn ngừng thở được người thân chứng kiến.

Theo đó, bệnh nhân đang ngáy rất đều, tự nhiên không thấy có tiếng động phát ra, trên 10 giây bắt đầu thấy bệnh nhân cựa mình, sặc lên rồi ngáy tiếp, đó là dấu hiệu biểu hiện cơn ngừng thở; bệnh nhân cảm thấy ngộp thở, ngột ngạt khó thở khi ngủ. Biểu hiện đáng chú ý nữa là bệnh nhân thường thức giấc vào ban đêm, có thể đi tiểu 3 – 4 lần, ngủ không ngon giấc; ngủ dậy mệt mỏi, đau đầu buổi sáng, không sảng khoái, rất buồn ngủ, rất khó tập trung…

Trường hợp bệnh nhân Đỗ T.K.T (50 t.uổi, ở Hà Nội) là ví dụ điển hình. Anh T., không bị ngáy to, nhưng cũng ngủ không ngon giấc, đêm nào anh cũng phải đi tiểu 3- 4 lần. Nghi ngờ thận anh có vấn đề, đi khám không ra bệnh… Tình trạng tiểu đêm vẫn tái diễn, anh quyết định đi khám tổng thể. Tại chuyên khoa hô hấp, anh được các bác sĩ đo đa ký giấc ngủ 1 đêm, bác sỹ đọc kết quả điện não, điện tim, điện cơ cho thấy bệnh nhân bị rối loạn giấc ngủ do hội chứng ngưng thở khi ngủ ở mức độ nặng, những lần ngưng thở gây thiếu oxy trong m.áu làm bệnh nhân ngủ không ngon giấc dẫn đến đi tiểu nhiều lần.

Theo các bác sĩ chuyên khoa, đối tượng nào cũng có thể mắc chứng ngưng thở khi ngủ từ thanh niên, người trung t.uổi và lớn t.uổi, thậm chí có thể gặp ở cả cháu bé còn rất ít t.uổi.

“Trong đó, t.rẻ e.m hay gặp ở nhóm có liên quan bất thường đến căn nguyên tai – mũi – họng. Đặc biệt, đối tượng t.rẻ e.m thừa cân béo phì cũng rất lớn do tình trạng lười vận động, sử dụng thức ăn nhanh khá phổ biến. Đối tượng thanh niên béo phì, thừa cân, người lớn t.uổi tăng huyết áp… cũng là đối tượng dễ mắc chứng ngưng thở khi ngủ”, PGS.TS Vũ Văn Giáp nhấn mạnh.

Ngoài ra, theo PGS Giáp, nam giới thường xuyên hút t.huốc l.á; dùng nhiều chất kích thích như rượu, bia, t.huốc a.n t.hần; phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh cũng là nhóm đối tượng nguy cơ mắc hội chứng ngưng thở khi ngủ.

Đáng lo ngại, dù là tình trạng rất nhiều người mắc phải, nhưng không phải ai cũng ý thức được mức độ nghiêm trọng để đi khám.

“Khi ngưng thở lúc ngủ, không khí không vào đến phổi để trao đổi oxy, gây ra thiếu oxy toàn thân ảnh hưởng đến mạch m.áu ở tim, phổi, thận, tuyến tụy, não… Từ đó gây nên một loạt các rối loạn chuyển hóa, tăng huyết áp, ảnh hưởng đến các mạch m.áu não, mạch m.áu ở tim và khắp cơ thể dẫn đến bệnh tăng huyết áp, nguy cơ mạch vành, nhồi m.áu cơ tim, đột quỵ do tắc mạch não, xuất huyết não. Chính vì vậy, ngưng thở khi ngủ về lâu dài có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và có nguy cơ gây đột tử”, bác sỹ Giáp cảnh báo.

Vì thế, theo các chuyên gia, nếu trong gia đình có người thường xuyên ngáy, ngáy to; hay buồn ngủ vào ban ngày; thức giấc nhiều lần trong đêm; đi tiểu đêm nhiều; đau đầu buổi sáng; không biết mình có ngủ được hay không; giảm trí nhớ, kém tập trung khi làm việc… thì nên đi khám chuyên khoa hô hấp để được chẩn đoán tình trạng bệnh.

Huyền Anh

Theo infonet

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *