Cách đây hơn 15 năm, bà L. (64 t.uổi, ở Hà Nội) được chẩn đoán ung thư vú. Bà đã phải cắt bỏ toàn bộ vú phải, nạo vét hạch nách và chiếu tia xạ vào vùng ngực để phòng tránh tái phát.
Sau điều trị ung thư vú, bà đành cam chịu cảnh sống 1 bên mất 1 bên còn với hy vọng sức khỏe sẽ ổn định lâu dài. Sức khỏe của bà phục hồi tốt, các đợt khám lại cho thấy bà đã sạch tế bào ác tính.
3 năm trở lại đây, vùng ngực bên phải nơi thực hiện chiếu xạ của bà L. bắt đầu có hiện tượng viêm loét. Vì ngại mổ xẻ nên bà L. chỉ dám sử dụng kháng sinh liều cao và thay băng vết thương nhiều đợt nhưng tổn thương của bà vẫn không cải thiện, có xu hướng phát triển rộng hơn. Vết thương của bà ngày một nặng, chảy dịch không ngừng kèm theo các cơn đau đớn cắn rứt cả ngày.
Do quá đau đớn, bà L. đã đến Trung tâm Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức để khám.
Các bác sĩ phẫu thuật tái tạo lại bầu ngực cho bệnh nhân.
Tại bệnh viện, bà được các bác sĩ kiểm tra tầm soát ung thư tái phát. Các bác sĩ đã tiến hành cắt bỏ rộng rãi tổ chức loét hoại tử và tái tạo thành ngực bằng phần da cơ phía sau lưng giúp tăng cường khả năng chống viêm loét, làm đầy đặn thành ngực cho bệnh nhân.
Sau phẫu thuật 1 tuần, bệnh nhân thấy hoàn toàn khoẻ khoắn, sinh hoạt bình thường trở lại và không còn khó chịu vì vết loét.
Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Hà – Trưởng khoa Phẫu thuật Tạo hình – Hàm mặt – Thẩm mỹ (Bệnh viện Việt Đức), viêm loét lâu liền là tác dụng không mong muốn hay gặp sau xạ trị. Đặc biệt, tại vùng ngực sau cắt bỏ tuyến vú ung thư do tổ chức vùng ngực mỏng, mô đệm ít.
Biến chứng có thể gặp bất kì thời điểm nào, 1-2 năm sau xạ trị hoặc có trường hợp xảy ra sau gần 20 năm. Khi gặp biến chứng này, bệnh nhân nên đi khám sớm, loại trừ ung thư tái phát và điều trị viêm loét tránh tổn thương viêm loét kéo dài gây ung thư hoá.
Ngoài ra, bệnh nhân có thể kết hợp điều trị loét xạ trị và tạo hình lại luôn bầu ngực, kết hợp các chất liệu tự thân hoặc nhân tạo, chỉnh sửa giúp có hai bên ngực cân đối hơn. Người bệnh không chỉ được cải thiện về mặt sức khỏe mà còn cải thiện rất nhiều về mặt thẩm mỹ, tâm lý, khả năng hòa nhập đầy đủ với cuộc sống đời thường.
PGS Hà cũng cho biết, việc phát hiện và chẩn đoán sớm ung thư vú, phẫu thuật ở giai đoạn sớm giúp người bệnh có nhiều lựa chọn điều trị như không phải cắt bỏ toàn bộ tuyến vú, hạn chế nạo vét hạch hay điều trị bổ trợ hoá trị xạ trị sau phẫu thuật.
Còn theo BS Nguyễn Thu Hằng – Khoa Phẫu thuật Tạo hình – Hàm mặt – Thẩm mỹ, các bệnh phẩm ngay sau khi cắt bỏ cần được sinh thiết tức thì, phối hợp chặt chẽ chuyên khoa giải phẫu bệnh để xác định tổn thương đã được cắt bỏ hoàn toàn hay chưa, có tế bào ác tính hay không.
Bên cạnh đó, việc tái tạo che phủ lại phần viêm loét cần phải được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên sâu tạo hình sau ung thư vú để đảm bảo lựa chọn được chất liệu che phủ phù hợp và thẩm mỹ.
Người bệnh ung thư không c.hết nhanh hơn nếu ‘động dao kéo’
Bác sĩ Nguyễn Hữu Phúc khẳng định quan niệm phẫu thuật khiến bệnh nhân ung thư nặng, di căn nhanh hay t.ử v.ong sớm hơn là hoàn toàn sai lầm.
Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Hữu Phúc, làm việc tại Phòng khám Ung bướu, Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM, cho biết khi tiếp nhận người nghi ngờ ung thư, các bác sĩ sẽ thăm khám lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh bằng X-quang, CT, MRI… để phát hiện khối u.
Trước tiên, người bệnh buộc phải phẫu thuật lấy một phần khối u đi làm sinh thiết để xác định u lành hay ác tính. Thông thường ở các trường hợp nghi ngờ, hơn 70% kết quả là ung thư giai đoạn muộn. Tế bào ung thư không còn nằm nguyên một chỗ mà đã lưu thông trong dòng m.áu, xâm lấn và di căn tới các cơ quan khác. Lúc này, dù có phẫu thuật tiếp hay bất kỳ phác đồ hóa trị, xạ trị, miễn dịch… nào khác thì tiên lượng đều xấu.
Bác sĩ Phúc khám cho một bệnh nhân ung thư. Ảnh: Minh Trí.
Bác sĩ lý giải, trước đây, khi y học chưa phát triển thì ung thư được xem là bệnh tử. Nay, y học hiện đại hơn giúp chữa khỏi hoàn toàn, hoặc kéo dài thời gian sống tối đa cho người bệnh. Dù vậy, do hiểu biết về ung thư chưa đúng đắn, đa số bệnh nhân được phát hiện giai đoạn muộn, dẫn đến điều trị chậm trễ. Chính vì vậy, nhiều bệnh nhân và người nhà hiểu lầm, mang định kiến mổ xẻ rút ngắn quãng thời gian sống còn lại của người bệnh. Thậm chí, nhiều trường hợp phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm hơn, song kiên quyết từ chối phẫu thuật, từ chối nghe tư vấn của bác sĩ.
Tâm lý chung của người bệnh là không chấp nhận sự thật. Họ đi tìm một chẩn đoán khác ung thư để xoa dịu, ổn định tâm lý, không biết được mình đang nằm ở giai đoạn bệnh nào. Nắm được yếu điểm này, một số người lan truyền quan niệm “động dao kéo làm vỡ u, khiến u di căn, c.hết nhanh hơn”. Không ít người uống t.huốc l.á cây, thuốc gia truyền, niềm tin tâm linh… mà không cần thuốc tây, nhất là phẫu thuật. Đến khi bệnh trầm trọng, bệnh nhân quay lại bệnh viện thì đã qua mất thời gian vàng, vượt quá chỉ định điều trị bằng phẫu thuật.
“Lúc này mới thực sự là cái c.hết đến nhanh hơn”, bác sĩ Phúc chia sẻ.
Tùy từng loại bệnh ung thư, giai đoạn bệnh và thể trạng người bệnh mà bác sĩ lựa chọn mô thức – phác đồ điều trị đặc hiệu. Ví dụ, ung thư vòm hầu rất nhạy với tia xạ, do đó xạ trị là biện pháp hàng đầu. Hóa trị thường áp dụng đối với các loại ung thư m.áu như bệnh bạch cầu, ung thư hạch bạch huyết, đa u tủy xương. Riêng phẫu thuật là mô thức chủ lực cho ung thư bướu đặc như ung thư vú, ung thư đường tiêu hóa, ung thư phổi.
Tất cả mô thức đều có thể điều trị đơn hoặc kết hợp, nhất là ở giai đoạn bệnh nặng. Hiện có thêm phương án thuốc miễn dịch, thuốc sinh học, ghép tủy… nhằm tăng khả năng chữa khỏi cho bệnh nhân.
Vai trò của phẫu thuật, theo bác sĩ Phúc, là không thể thay thế . Đa số ung thư giai đoạn sớm, phẫu thuật cho phép loại bỏ các khối u nhanh chóng, triệt để mà không bị “nhờn” như các phương pháp khác. Có 5 loại phẫu thuật cơ bản, tùy theo mục đích của bác sĩ. Mỗi bệnh nhân có thể tiến hành nhiều loại phẫu thuật.
Các bác sĩ Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM vừa mổ cắt lá gan ung thư giai đoạn sớm, vừa ghép lá gan mới khỏe mạnh cho bệnh nhân. Ảnh: Minh Trí.
Thông thường nhất là phẫu thuật chẩn đoán. Các bác sĩ trong cuộc mổ có thể lấy đi một mẫu bệnh phẩm hoặc lấy trọn khu vực nghi ngờ đi giải phẫu.
Thứ hai, là phẫu thuật xếp giai đoạn. Bác sĩ sẽ mổ ra tìm hiểu kích thước, vị trí, độ xâm lấn của khối u. Từ đó, đưa ra hướng điều trị, tiên lượng.
Thứ ba, quan trọng nhất là phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối u tại chỗ, u di căn và các vùng mô bao quanh có nguy cơ đã biến chất. Đôi khi, khối u cấu tạo phức tạp, hoặc quá lớn nên các bác sĩ chỉ có thể loại bỏ khối u nhiều nhất có thể.
Thứ tư là phẫu thuật phòng ngừa. Cách này thường áp dụng với phụ nữ mang gene đột biến, nguy cơ tương lai mắc ung thư vú, cần cắt bỏ toàn bộ tuyến vú để phòng bệnh.
Thứ năm là phẫu thuật tái tạo. Sau khi cắt tuyến vú, phụ nữ có thể tạo lại hình dáng ngực như nguyên bản. Loại phẫu thuật này giúp người bệnh hòa nhập lại cuộc sống bình thường, tái tạo, phục hồi chức năng, thẩm mỹ phần cơ thể đã bị ảnh hưởng trong quá trình điều trị bệnh.
Ngoài ra, phẫu thuật giảm nhẹ triệu chứng, thực hiện với bệnh nhân có tế bào ung thư đã di căn, giúp những ngày cuối đời ít đau đớn, cải thiện chất lượng cuộc sống. Ví dụ, phẫu thuật hủy hạch giao cảm ngực D4, D5 để cắt cơn đau do ung thư tụy; mở thông dạ dày, thực quản ở bệnh nhân ung thư đầu cổ, thực quản.
Hàng năm Phòng khám Ung bướu, Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM tiếp nhận khoảng 20.000 lượt bệnh nhân, 10% trong số này có chỉ định phẫu thuật. Bác sĩ Phúc nói hiệu quả phẫu thuật tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nhìn chung, ở giai đoạn bệnh sớm, khả năng chữa lành lên đến 70-80%. Trường hợp ung thư vú, ung thư phổi, nếu phẫu thuật ở giai đoạn một, 90-95% khỏi bệnh.
“Lời thề và trách nhiệm của bác sĩ là cứu người. Chắc chắn không bác sĩ nào chỉ định mổ để làm ngắn đi thời gian sống của bệnh nhân”, bác sĩ Phúc khẳng định.