Tín hiệu mừng từ việc ghép tế bào gốc điều trị bệnh phổi tắc nghẽn

Hơn một năm trước bác Tạ Xuân Tr. (69 t.uổi, Hà Nội) chỉ đi bộ 100-200m đã thấy khó thở, thường xuyên vào viện cấp cứu vì lên cơn cấp phổi tắc nghẹn mạn tính. Song nhờ ghép tế bào gốc, hiện nay bác đã có thể đi bộ quãng đường dài hơn, leo cầu thang mà không bị khó thở.

Trong một lần tái khám tại Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai, bác Tr phấn khởi cho biết gần 1 năm sau khi được điều trị tế bào gốc, bác thấy sức khỏe cải thiện rõ rệt, đặc biệt là khả năng gắng sức.

“Tôi đã đi bộ được quãng đường dài hơn, leo được cầu thang với tầng cao hơn mà không xuất hiện khó thở hoặc xuất hiện khó thở với mức độ nhẹ. Trong 1 năm vừa rồi tôi không hề xuất hiện một đợt cấp nào liên quan đến bội nhiễm. Khi xuất hiện các cơn khó thở, tôi đã tự kiểm soát được theo hướng dẫn của bác sĩ mà không phải vào viện để điều trị”, bác Tr chia sẻ.

Tại Trung tâm Hô hấp, BV Bạch Mai đã có 40 bệnh nhân được ghép tế bào gốc điều trị bệnh mắc phổi tắc nghẽn mạn tính. Ảnh: Bệnh viện cung cấp.

Bác là một trong những bệnh nhân được ghép tế bào gốc tự thân từ mô mỡ vào tháng 11/2018.

Bác sỹ Nguyễn Thanh Thủy, Trung tâm Hô hấp, BV Bạch Mai cho biết, bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhiều năm nay với mức độ nặng, phải vào viện nhiều lần vì các cơn cấp. Chức năng hô hấp dưới 50%, điều đó có nghĩa thông khí tắc nghẽn ở mức độ nặng. Vì thế, bệnh nhân có chỉ định để ghép tế bào gốc tự thân từ mô mỡ để điều trị bệnh. Nhờ đó sức khoẻ bệnh nhân cải thiện rõ rệt.

PGS.TS Chu Thị Hạnh, Phó giám đốc Trung tâm Hô hấp, BV Bạch Mai cho biết, đến nay đã có 40 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này và kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy chưa có biến cố bất lợi nào liên quan đến truyền tế bào gốc tự thân từ mô mỡ, tủy xương. Sức khỏe của các bệnh nhân đều có sự cải thiện rõ rệt.

“Chúng tôi hy vọng đây sẽ là hướng điều trị triển vọng cho các bệnh nhân bị phổi tắc nghẽn mạn tính”.

Theo PGS Hạnh, Phó giám đốc Trung tâm Hô hấp, BV Bạch Mai tế bào gốc là những tế bào chưa biệt hóa, có khả năng biệt hóa để trở thành các tế bào khác với các chức năng riêng biệt mới. Tế bào gốc trưởng thành (adult stem cell) thu nhận từ tủy xương, mô mỡ… không chỉ có khả năng làm mới mà còn có khả năng biệt hóa thành nhiều kiểu tế bào khác nhau như xương, mỡ, sụn, cơ, gan, thận, tim mạch, tế bào tiết insulin, thần kinh, tế bào khí quản…

Đồng thời, tế bào gốc tự thân có tính an toàn cao. Vì thế, hiện nay tế bào gốc trưởng thành đang được nghiên cứu ứng dụng điều trị trong rất nhiều bệnh lý.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là bệnh lý hô hấp mạn tính có thể dự phòng và điều trị được. Bệnh đặc trưng bởi sự tắc nghẽn luồng khí thở ra không hồi phục hoàn toàn.

Nhiều nghiên cứu cho thấy tế bào gốc trưởng thành có khả năng di chuyển đến vùng tổn thương, có tính kháng viêm và điều hòa miễn dịch. Ảnh: Webmd.

Các nghiên cứu cho thấy tế bào gốc trưởng thành là loại tế bào gốc đa năng có thể biệt hóa thành nhiều loại tế bào khác nhau, có khả năng di chuyển đến vùng tổn thương, có tính kháng viêm và điều hòa miễn dịch. Vì vậy, tế bào gốc trưởng thành có thể tác động đến cơ chế bệnh sinh của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và làm chậm tiến triển của bệnh cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Tủy xương, mô mỡ là nguồn cung cấp số lượng tế bào gốc trưởng thành nhiều nhất trong cơ thể. Việc dùng tế bào gốc trưởng thành tự thân giúp tránh được nguy cơ liên quan đến thải ghép.

Nghiên cứu điều trị tế bào gốc cho bệnh nhân mắc phổi tắc nghẽn mạn tính tại Việt Nam đang là hướng đi mới với nhiều triển vọng. Năm 2017, Bệnh viện Bạch Mai bắt đầu triển khai thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tự thân từ mô mỡ và tủy xương trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính” đã được Bộ Khoa học Công nghệ phê duyệt.

Theo PGS Hạnh, đến nay đã có 40 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này và kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy chưa có biến cố bất lợi nào liên quan đến truyền tế bào gốc tự thân từ mô mỡ, tủy xương. Sức khỏe của các bệnh nhân đều có sự cải thiện rõ rệt.

“Chúng tôi hy vọng đây sẽ là hướng điều trị triển vọng cho các bệnh nhân bị phổi tắc nghẽn mạn tính”.

Tiêu chuẩn bệnh nhân được điều trị tế bào gốc:

– Bệnh nhân được chẩn đoán phổi tắc nghẽn mạn tính ở mức độ nặng và rất nặng, trong độ t.uổi từ 40 đến 80.

– Chỉ số FEV1 (đo chức năng hô hấp cho bệnh nhân) 60%.

– Có ít nhất 2 đợt cấp hoặc ít nhất 1 đợt cấp phải nhập viện trong 1 năm trước đó.

Nam Phương

Theo Dân trí

Tế bào gốc & sự kỳ diệu của khoa học

Nhìn Hoàng Thị Thùy Linh (sinh năm 1986) chuẩn bị cho chuyến du lịch Sapa cùng bạn bè ở Hà Nội với nụ cười tươi rói, ít ai biết được rằng chỉ bốn năm trước đây, cô gái người Quảng Bình này là bệnh nhân ung thư m.áu, thuộc nhóm tiên lượng xấu, khó có cơ hội cứu sống.

Nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra, Thùy Linh đã chiến thắng được căn bệnh, sống mạnh khỏe và làm được nhiều điều mình muốn.

Linh trở lại với đam mê du lịch sau khi khỏi bệnh. Ảnh: CÔNG THẮNG

Hồi sinh từ tế bào gốc m.áu dây rốn cộng đồng

Tháng 9-2014, Thùy Linh bị sốt và giảm tiểu cầu, phải truyền m.áu. Những lần truyền là những lần cô bị sốt cao, kèm rét, cái rét như từ trong xương tủy. Đỉnh điểm có hôm sốt hơn 40oC, người rét run bần bật; rồi Linh thiếp đi lúc nào không biết. Lúc tỉnh lại người ướt đẫm mồ hôi, tay chân tê dại không còn cảm giác… Phát hiện mình bị mắc bệnh Lơ-xê-mi (Leukemia) cấp thể M5a hay con goi la bênh mau trăng. Từ một cô gái năng động, mê du lịch, Thùy Linh đã phải nằm bẹp tại bệnh viện chiến đấu với bệnh ung thư m.áu.

Bệnh của Linh thuộc nhóm tiên lượng xấu. Các bác sĩ ở Viện Huyết học và Truyền m.áu Trung ương, sau khi hội chẩn, đã quyết định phương án tối ưu nhất để cứu sống Linh là phải ghép tế bào gốc cho cô và nguồn tế bào gốc sẽ được kiểm tra nếu hợp sẽ lấy từ người em trai ruột của Linh. Nhưng số phận như thử thách Linh, khi tiến hành xét nghiệm HLA (để đ.ánh giá mức độ hòa hợp) từ người em lại không phù hợp. Vì vậy, tất cả hy vọng của Linh là trông chờ vào việc tìm được đơn vị m.áu dây rốn không cùng huyết thống phù hợp trong Ngân hàng Tế bào gốc m.áu dây rốn cộng đồng của Viện.

Thời điểm đó, tại Ngân hàng Tế bào gốc m.áu dây rốn cộng đồng của Viện Huyết học và Truyền m.áu trung ương mới chỉ có 700 mẫu m.áu dây rốn đang lưu trữ. Thùy Linh thật may mắn khi các bác sĩ đã tìm ra đơn vị m.áu dây rốn phù hợp về mức độ hòa hợp HLA liều tế bào gốc để tiến hành ghép cho cô.

Ngày 30-12-2014 là một ngày đặc biệt đối với Linh, ca ghép đồng loại không cùng huyết thống đầu tiên sử dụng mẫu m.áu dây rốn của Ngân hàng Tế bào gốc m.áu dây rốn cộng đồng (Viện Huyết học và Truyền m.áu Trung ương) được tiến hành. Ca ghép thành công giúp Linh như được tái sinh thêm lần nữa.

Cũng vượt qua cửa tử để trở về với cuộc sống tươi đẹp như Thùy Linh là cô gái Hoàng Thị Diệu Thuần sinh năm 1987, quê ở Quỳ Hợp, Nghệ An. Thuần bị ung thư m.áu năm 18 t.uổi và cũng đã trải qua nhiều phác đồ điều trị, bao gồm cả thuốc nhắm đích đặc hiệu nhưng không thành công. Năm 2012, Thuần được ghép tế bào gốc tại Viện Huyết học và Truyền m.áu Trung ương. Cuộc đời và nghị lực vượt qua hoàn cảnh, được hồi sinh cùng với sự tận tâm của đội ngũ thầy thuốc giỏi đã được Diệu Thuần tái hiện qua hai cuốn tự truyện: “Như hoa hướng dương” (2012) và “Muôn ánh mặt trời” (12-2015). Nếu cuốn đầu tiên chỉ là những trang nhật ký trên giường bệnh trước khi Thuần tiến hành ca ghép tủy, thì cuốn thứ hai đã tái hiện nghị lực sống phi thường trong hành trình 10 năm chiến đấu với căn bệnh ung thư m.áu của Thuần.

Cơ hội cho những người mắc bệnh hiểm nghèo

Thùy Linh và Diệu Thuần là hai trong số hàng trăm bệnh nhân đã được ghép tế bào gốc tại Viện Huyết học và Truyền m.áu Trung ương.

Ngược trở lại những ngày của năm 2006, ca ghép tế bào gốc tự thân đầu tiên cho bệnh nhân đa u tủy xương đã được Viện thực hiện và thành công tốt đẹp. Đến tháng 5-2008, Viện tiếp tục thành công với ca ghép tế bào gốc đồng loại đầu tiên, đ.ánh dấu một kỷ nguyên mới: Đưa ghép tế bào gốc trở thành một phương pháp điều trị đầy triển vọng đem lại cơ hội khỏi bệnh cho các bệnh nhân mắc bệnh lý huyết học tại Viện.

Bác sĩ Viện Huyết học và Truyền m.áu Trung ương điều trị cho Thùy Linh. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Năm 2014, việc tiến hành ca ghép đồng loại không cùng huyết thống đầu tiên sử dụng mẫu m.áu dây rốn của Ngân hàng Tế bào gốc m.áu dây rốn cộng đồng cho Hoàng Thị Thùy Linh là bước đột phá lớn trong lĩnh vực y học nước nhà. Viện cũng là nơi cung cấp đáng kể nguồn tế bào gốc để ghép điều trị cho bệnh nhân không có người hiến tế bào gốc cùng huyết thống. Sau thành công của Thùy Linh, với phương pháp này, Viện đã cứu sống hàng chục người bệnh như cô. Tính đến tháng 9-2018, Viện Huyết học và Truyền m.áu Trung ương đã ghép cho 336 ca bệnh, trong đó có 25 ca được ghép từ nguồn m.áu dây rốn cộng đồng. Nhờ những tiến bộ của y học nước nhà trong việc ghép tế bào gốc mà hàng trăm con người tưởng đã tuyệt vọng vì không còn cơ hội sống được “cải tử hoàn sinh”.

Theo TS,BS Trần Ngọc Quế, Giám đốc Ngân hàng Tế bào gốc m.áu dây rốn cộng đồng của Viện, ngân hàng này được đ.ánh giá là cơ sở duy nhất của Việt Nam cung cấp mẫu tế bào gốc để ghép đồng loài cho bệnh nhân không cùng huyết thống và cũng là đơn vị sử dụng tế bào gốc m.áu dây rốn cộng đồng để ghép cho người bệnh nhiều nhất trên cả nước tính đến thời điểm này. Bên cạnh đó, chất lượng các mẫu tế bào gốc đang lưu trữ tại Ngân hàng Tế bào gốc của Viện đủ tiêu chuẩn không chỉ ghép cho bệnh nhân nhi khoa mà còn cho cả bệnh nhân người lớn. Các tế bào gốc sẽ giúp không chỉ trong điều trị các bệnh m.áu lành tính và ác tính, mà ở cả các bệnh lý khác như bệnh lý về cột sống, bệnh lý về thần kinh, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính…

Để có thể thu thập được những mẫu m.áu dây rốn từ những sản phụ tình nguyện hiến, Viện đã liên kết với Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Đến nay, ngân hàng này đã tiếp nhận, xử lý và lưu trữ được gần 4.000 mẫu m.áu dây rốn, mẫu tế bào gốc bảo đảm chất lượng. Bên cạnh đó, Viện cũng đã bước đầu ứng dụng kỹ thuật xét nghiệm HLA độ phân giải cao cho các mẫu dịch nước ối nhằm xác định trước sinh sự phù hợp HLA của mẫu m.áu dây rốn với bệnh nhi, góp phần tư vấn cho các sản phụ có ý định lưu trữ m.áu dây rốn để ghép cho các bệnh nhi mắc các bệnh m.áu bẩm sinh hoặc bệnh m.áu ác tính là anh chị của thai nhi đang nằm trong bụng mẹ.

Thời gian tới, Viện sẽ tiếp tục nghiên cứu để phát triển hơn trong lĩnh vực ghép tế bào gốc. Từ kết quả đạt được từ người hiến cùng huyết thống, Việt Nam tích cực triển khai ghép MDR, nửa hòa hợp hay phối hợp cả hai nguồn tế bào gốc. Bên cạnh đó, Viện đã và đang tiến hành ghép đồng loài giảm cường độ liều cho bệnh nhân trên 55 t.uổi. Cố gắng hoàn thiện quy trình để ghép cho nhóm bệnh đang là nỗi trăn trở của xã hội – bệnh tan m.áu bẩm sinh Thalassemia.

Kỹ thuật viên đang xử lý khối tế bào gốc. Ảnh: T.L

Tế bào gốc là tế bào nguyên thủy nhất của cơ thể, có thể biến đổi thành nhiều tế bào của các cơ quan khác nhau. Ở người lớn, tế bào gốc tạo m.áu gặp chủ yếu ở tủy xương, ngoài ra có thể gặp ở m.áu ngoại vi với một số lượng rất ít. Ở trẻ sơ sinh, tế bào gốc tạo m.áu có thể gặp ở m.áu trong dây rốn của trẻ (gọi là m.áu dây rốn/máu cuống rốn).

Tế bào gốc tạo m.áu có thể sử dụng để ghép điều trị các bệnh về m.áu như ung thư m.áu, suy tủy xương, u lympho ác tính, tan m.áu bẩm sinh (thalassemia)… Tế bào gốc tạo m.áu dùng cho ghép có thể thu được từ các nguồn: dịch chọc hút tủy xương, gạn tách từ m.áu ngoại vi, m.áu trong dây rốn,… Khi ghép, các tế bào gốc mới này sẽ thay thế các tế bào gốc tạo m.áu bệnh lý của cơ thể bệnh nhân và giúp cho bệnh nhân lui bệnh, thậm chí khỏi bệnh. Ngoài ra, những lĩnh vực ứng dụng mới của tế bào gốc và tế bào gốc tạo m.áu còn đang được nghiên cứu như miễn dịch chống ung thư, điều trị các bệnh nội khoa mạn tính ngoài hệ tạo m.áu như đái tháo đường, tim mạch, xương khớp…

HÀ THƯ

Theo Nhân dân

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *